tứ ân đạo phật ở tây nam bộ

tứ ân đạo phật ở tây nam bộ

Tứ Ân Đạo Phật Ở Tây Nam Bộ

Cuốn sách Tứ Ân Đạo Phật ở Tây Nam Bộ là một phần kết quả nghiên cứu từ đề tài cấp Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022 - 2024: "Phong trào các ông Đạo ở Nam Bộ từ thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 từ góc nhìn khu vực học" (mã số B2022-16-02) đã được thực hiện dưới sự chủ nhiệm của TS. Nguyễn Trung Hiếu, giảng viên Khoa Du lịch & Văn hóa - Nghệ thuật, Trường Đại học An Giang - ĐHQGTPHCM và nhóm nghiên cứu là giảng viên Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM.

Tứ Ân Đạo Phật ra đời năm 1947, được sáng lập dựa trên nền tảng tư tưởng giáo lý của Bửu Sơn Kỳ Hương (ra đời năm 1849) và tư tưởng Phật giáo. Trong lịch sử, tôn giáo này có nhiều đóng góp lớn trong việc khẩn hoang lập làng ở An Giang và Kiên Giang; đóng góp tích cực vào việc ổn định đời sống vật chất cho người dân Tây Nam Bộ ở giai đoạn lịch sử xã hội có nhiều biến động. Hiện nay, cộng đồng tín đồ Tứ Ân Đạo Phật tích cực tham gia các hoạt động từ thiện xã hội ở địa phương. Do vậy, nghiên cứu về Tứ Ân Đạo Phật sẽ làm nổi bật mối quan hệ giữa đời sống tôn giáo và đời sống xã hội của tín đồ trong suốt diễn trình ra đời và tồn tại đến ngày nay.

Đặt trong từng thời điểm lịch sử - giai đoạn Tứ Ân Đạo Phật ra đời hay giai đoạn hiện nay, Tứ Ân Đạo Phật là nguồn lực tinh thần khỏa lấp khoảng trống trong tâm thức con người, hình thành nên giá trị văn hóa mới ở vùng đất Tây Nam Bộ. Đó là giá trị thụ dung đa tầng văn hóa tồn tại ở vùng đất Tây Nam Bộ vào một tôn giáo, làm cho tôn giáo cộng sinh hài hòa với các tôn giáo khác; khác biệt và độc đáo so với các tôn giáo nội sinh trước đó mà Tứ Ân Đạo Phật ảnh hưởng. Đó còn là giá trị tư tưởng đạo đức tôn giáo mà tín đồ đóng góp cho xã hội từ khi ra đời đến nay. Từ đó cho thấy Tứ Ân Đạo Phật tạo nên một hệ giá trị văn hóa trong bức tranh đa dân tộc và tôn giáo vùng Tây Nam Bộ.

Chuyên khảo này đề cập những nội dung chính như sau:

Chương 1: Lý luận về tôn giáo, giáo phái mới và hoàn cảnh ra đời của Tứ Ân Đạo Phật.

Chương 2: Lịch sử hình thành, phát triển và hệ thống tổ chức hoạt động của Tứ Ân Đạo Phật.

Chương 3: Phương thức tu hành và tư tưởng giáo lý của Tứ Ân Đạo Phật.

Chương 4: Đặc trưng thờ phụng của Tứ Ân Đạo Phật.

Chương 5: Hệ thống nghi lễ và lễ cúng của Tứ Ân Đạo Phật.

Chương 6: Ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống tinh thần và đời sống vật chất của tín đồ.

Chương 7: Ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống xã hội, và dự báo về hoạt động của cộng đồng tín đồ Tứ Ân Đạo Phật trong tương lai.

hệ giá trị việt nam từ truyền thống đến hiện đại (tái bản 2024)

hệ giá trị việt nam từ truyền thống đến hiện đại (tái bản 2024)

Hệ Giá Trị Việt Nam Từ Truyền Thống Đến Hiện Đại

Giải pháp duy nhất không thể trốn tránh là phải sớm xây dựng văn hóa để phát triển dựa trên nền tảng của một hệ giá trị Việt Nam mới.

Việc xây dựng hệ giá trị Việt Nam mới đòi hỏi không phải là nhắc lại một số phẩm chất tưởng như là giá trị truyền thống điển hình (như yêu nước, cần cù, sáng tạ) mà là cần phải tập trung vào gây dựng và phát triển những giá trị mà xã hội và con người Việt Nam còn thiếu (như Pháp quyền, Trung thực, Bản lĩnh, Hợp tác, Tĩnh khoa học), hoặc có ở mức rất thấp (như Dân chủ, Trách nhiệm), hoặc có nhưng cần điều chỉnh nội hàm (như Yêu nước không chỉ thể hiện trong chiến tranh chống ngoại xâm, mà quan trọng là thể hiện trong xây dựng hòa bình, giữ gìn quốc thể; Sáng tạo không chỉ là linh hoạt biến báo, mà còn phải nâng lên tấm sáng tạo phát minh; Nhân ái không chỉ là yêu quý những người quen biết mà phải chống bệnh vô cảm, yêu quý cả những người không quen biết), hoặc có nhưng đang có nguy cơ mai một (như Nhân ái).

Có thể khẳng định rằng chừng nào mỗi người dân và mỗi cộng đồng người Việt Nam còn chưa đủ trung thực và bản lĩnh nhìn thẳng vào những tật xấu của mình để khắc phục, mà vẫn còn ưa nịnh, thích được khen, chạy theo lợi ích cá nhân, cục bộ mà lừa đối nhau và tự dối mình thì mãi mãi vẫn chỉ là một dân tộc chưa trưởng thành, dù có tự hào về “lịch sử hàng nghìn năm".

binh pháp gia truyền thư

binh pháp gia truyền thư

Binh Pháp Gia Truyền Thư

"Nước phản chiếu bóng trăng, gương in hình bóng người. Sự vật đều được chiếu bóng ở trong nhân tâm, giống như ánh trăng được chiếu bóng vào trong nước, là sự phản ánh của khoảnh khắc. Vị trí của kiếm thân diệu phảng phất như là mặt nước, còn tâm của ngươi có thể so với ánh trăng. Vị trí của kiếm thần diệu có thể được phản bóng ở trong tâm. Tâm động, hình động; hình theo tâm mà động". - Yagyū Munenori

Binh pháp gia truyền thư của Yagyū Munenori là cuốn sách kinh điển về nghệ thuật chiến đấu của người Nhật Bản. Không chỉ đơn thuần bàn về kỹ thuật chiến đấu tay đôi giữa kiếm sĩ mà cuốn sách còn đề cập nhiều khía cạnh khác trong khi tác chiến như chiến thuật, chiến lược, tâm lý, và đạo đức. Thậm chí người đời nay còn học được từ đó nhiều bài học hữu ích, đó là sự tập trung và kiên trì trong rèn luyện; là việc tìm hiểu và ứng biến trước mọi biến cố đối thủ có thể đưa đến; là đạo đức và tinh thần của chiến binh thực thụ; là năng lực kiểm soát cảm xúc và tâm lý trong quá trình tham chiến; là kỹ năng giải quyết vấn đề khi gặp trường hợp bất trắc; và hơn hết là hiểu và tôn trọng chính mình lẫn đối thủ.

Yagyū Munenori (1571-1646) là kiếm sĩ nổi tiếng Nhật Bản. Sinh ra trong gia tộc được nhiều người gọi là gia tộc tình báo hoạt động ngầm trong các hoạt động gián điệp, nên ông được học kiếm thuật từ nhỏ. Ông là người sáng lập phái Shinkage, cũng là thầy dạy binh pháp, quân sự cho tướng quân Tokugawa Iemitsu. Sau đó ông trở thành daimyo, và lãnh chúa đầu tiên của vùng Yamoto Yagyu. Ông qua đời vì bệnh tật tại Azabu, Edo.

Munenori có rất nhiều đệ tử đảm nhiệm nhiều chức trách khác nhau, từ tướng quân cho đến các daimyo. Munenori coi kiếm cứu người là lý tưởng của binh pháp, ngay từ đầu không sử dụng vũ lực thì tốt hơn, nhưng nếu phải sử dụng vũ khí để loại bỏ một người mà cứu được cho cả vạn người thì cũng đáng.

khí chất nam bộ qua truyện sơn nam

khí chất nam bộ qua truyện sơn nam

Khí Chất Nam Bộ Qua Truyện Sơn Nam

"Để thực hiện đề tài này, ngoài kiến thức Lý luận Văn học và Văn học sử, tác giả còn phải tự bồi dưỡng cho mình kiến thức về Văn hóa học đại cương và Văn hóa vùng Nam bộ. Trong quá trình này, tác giả đã rất chủ động và tích cực, đảm bảo các yêu cầu đặt ra về mặt nội dung và phương pháp. Tác giả đã bao quát một khối lượng tư liệu khá lớn, đặc biệt là các tác phẩm truyện ngắn, truyện dài vốn rất phong phú của Sơn Nam. Chị đã trực tiếp gặp gỡ và tìm hiểu nhà văn và nhiều người cùng thời am hiểu sáng tác của ông để bổ sung vào kho tư liệu về Sơn Nam."

(trích lời nhận xét của GS. TS. Huỳnh Như Phương)

"Thế ứng xử của con người phương Nam trước tự nhiên và trong xã hội biểu hiện từng lúc khác nhau, nhưng cái hồn Việt Nam luôn nhất quán đằng sau những câu chuyện Sơn Nam kể lại, minh chứng cho dòng chảy văn hóa Việt Nam vẫn xuôi về biển lớn của một nền văn minh lớn trên thế giới, dẫu có phải vượt qua thác ghềnh lịch sử. Văn hóa đặc trưng Nam bộ mang một sắc màu đặc biệt trên bức tranh tổng thể văn hóa Việt, là khúc biến tấu ngọt ngào trong bản nhạc văn hóa Việt Nam được viết từ buổi bình minh lịch sử." (trích Chương 2)

bác hồ với công tác văn phòng, văn thư và lưu trữ

bác hồ với công tác văn phòng, văn thư và lưu trữ

Bác Hồ Với Công Tác Văn Phòng, Văn Thư Và Lưu Trữ

Cuốn sách này gồm 2 phần:

Phần thứ nhất, từ những chỉ dẫn trong nhiều bài viết của Bác Hồ, được tác giả lựa chọn một cách kỹ lưỡng và lần lượt phân tích, làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của công tác văn phòng, văn thư, lưu trữ mà những người được phân công làm công việc này trong các cơ quan Đảng, Nhà nước cũng như các doanh nghiệp đều cần nắm vững.

Phần thứ hai là tập hợp một số bài viết của Bác Hồ có liên quan đến công tác văn phòng, văn thư và lưu trữ như: óc tổ chức công việc trong hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp, về chống thói ba hoa, bệnh quan liêu, nạn giấy tờ, về cần kiệm liêm chính… Bác Hồ nói những điều đó trong nhiều hoàn cảnh lịch sử khác nhau nhưng đến tận ngày nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự, nhất là khi công cuộc cải cách nền hành chính ở nước ta đang được đẩy mạnh để làm cho hoạt động quản lý nhà nước hiệu quả hơn. Bằng cách dẫn ra những lời nhắc nhở của Bác Hồ và những thành tựu nghiên cứu của nhiều nhà khoa học về công việc văn phòng, tác giả đã giúp người đọc hiểu một cách đầy đủ hơn về những công việc thầm lặng, nhưng rất có ý nghĩa thuộc lĩnh vực văn phòng, văn thư và lưu trữ.

vua chúa việt nam và những điều chưa biết

vua chúa việt nam và những điều chưa biết

Vua Chúa Việt Nam Và Những Điều Chưa Biết

Cuốn sách là tập hợp những câu chuyện như vậy để hầu chuyện bạn đọc, từ những câu chuyện “quốc gia đại sự” như “Thời xưa nước ta gọi vua là gì?”, “Quy định trang phục, lễ nhạc khi vua thiết triều ra sao?", đến những câu chuyện độc đảo khi vua chúa xử lý công việc triều chính, các trường hợp nhà vua “bổ nhiệm thần tốc” bề tôi vì nhận thấy tài năng vượt trội, quan điểm của các vị vua về phong thủy, hay vua chúa nước ta xây hành cung thế nào, còn có cả việc bảo vệ an toàn của vua...

Bên cạnh đó là những khía cạnh về đời sống riêng tư của các vị vua, mô tả dung mạo của các vị vua chúa Việt, vua nào được sử sách mô tả là “mặt rỗng”, “dáng rộng”, vua nào được sứ thần nước ngoài khen là.... đẹp trai? Cùng độc giả giải đáp những thác mác như khi đi đánh trận, vua ăn gì? Vua uống rượu ra sao, những vua nào mê rượu? Khi du hành vua đi bằng phương tiện gì? Lúc còn trẻ vua phải học hành thế nào? Những vị vua Việt nào mắc bệnh lạ, đó là loại bệnh gì?....

Lọc từ sử sách, cũng không hiếm những câu chuyện đọc lại vẫn thấy mang tính thời sự như các vị vua nước ta xưa chống tham nhũng thể nào? Các vị vua dùng cách nào để ngăn nhân dân đánh bạc, khi có dịch bệnh lan truyền vua chỉ đạo xử lý thế nào? Hay chuyện các vị vua Việt rèn luyện thân thể bằng cách nào cũng ít người biết đến.

Mong rằng cuốn sách này sẽ là một món ăn nuôi dưỡng niềm yêu thích lịch sử và niềm tự hào dân tộc cho độc giả, đặc biệt là dành tặng cho những cô bé, cậu bé như các con tôi!

thương học phương châm

thương học phương châm

Thương Học Phương Châm

Ngày nay nghe nói đến Đông-Kinh Nghĩa - Thục, người Việt nào cũng ngưỡng mộ, kính phục những nhà cựu học đã gây nên phong trào duy tân đầu tiên ở nước nhà. Bị un đúc trong cái lò thi phú mà các cụ có đầu óc mới mẻ như vậy quả thực là siêu quần.

Công của các cụ rất lớn.

Nhờ Nghĩa Thục mà sau những vụ thất bại ở cuối thế kỷ trước, chúng ta lấy lại được lòng tự tín: không tự ti đối với Trung Hoa và Âu Tây mà cũng không tự cao đến mù quáng. Chúng ta vẫn tôn trọng những giá trị tinh thần - hi sinh và bất khuất - của cựu học mà đồng thời cũng biết nhận giá trị thực tế của tân học:

Học Tây học Hán có rành mới hay.

Cởi bỏ được những quan niệm lạc hậu rồi - nhất là quan niệm trung quân quá cố chấp - tinh thần dân tộc của ta vững thêm. Các cụ một mặt khai thác cái vốn cũ của dân tộc mà vốn quí nhất là ngôn ngữ, một mặt tiếp thu văn hóa Âu Tây bằng công việc dịch thuật. Các cụ là người đầu tiên bỏ khoa cử và hô hào mọi người học tiếng Việt, viết lách bằng tiếng Việt, do đó mở đường cho các nhóm Đông Dương tạp chí và Nam Phong sau này.

Nghĩa Thục chỉ thọ khoảng một năm mà tên Nghĩa Thục được ghi trên sử...“Mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ”. Mà danh ấy thọ là nhờ đám “nho lưu” ấy, gồm hầu hết những bực tuấn-tú, nhiệt-tâm, chí-khí nhất trong nước, tức cái tinh-hoa của non sông đã tụ họp nhau ở nhà số 4 phố hàng Đào của cụ Lương-văn-Can để nắm tay nhau mà cải-tạo non sông."

Nguyễn Hiến Lê – Đông Kinh nghĩa thục

dì ghẻ, con chồng

dì ghẻ, con chồng

Dì Ghẻ, Con Chồng

Được đông đảo độc giả, giới nghiên cứu khoa học xã hội biết đến là nhà nghiên cứu lịch sử, địa chí, nhưng xuất phát điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư, lại là những truyện dài dành cho thiếu nhi. Khởi sự cho nghiệp viết lách ấy, phải quay về hơn 80 năm trước khi năm 1943, tác phẩm đầu tiên truyện dài mang tên “Nguyễn Xí” đăng trên báo Truyền bá số 85, ra ngày 10/6/1943 tại Hà Nội, viết về cụ tổ dòng họ. Lúc đó, chàng trai Nguyễn Đình Tư ở tuổi 23.

Báo Truyền bá khi ấy, có những cây bút đã thành danh, tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Thâm Tâm… Đây cũng là những tên tuổi bảo chứng cho Nhà xuất bản Tân Dân, đơn vị in ấn, phát hành loại báo in dạng sách nhỏ. Thế mà, chàng trai Nguyễn Đình Tư từ tỉnh lẻ Trung Kỳ đã "chen chân" được lên báo Truyền bá, và không chỉ có tác phẩm Nguyễn Xí.

Sẵn đà cảm hứng sáng tác, Nguyễn Đình Tư còn có những tác phẩm Dì ghẻ, con chồng trên Truyền bá số 103, ra ngày 14/10/1943, Thù chồng nợ nước tập II trên Truyền bá số 113, ra ngày 3/2/1944, Nguồn sống trên Truyền bá số 150, ra ngày 19/10/1944.

Những tưởng các tác phẩm của thuở ban đầu nghiệp viết ấy chỉ còn là kỷ niệm với nhà nghiên cứu bách niên khi những đầu báo in hơn 80 năm trước bởi những chảy trôi của thời gian không còn giữ lại được. May thay, Thư viện quốc gia Pháp vẫn còn lưu gần đầy đủ những số báo Truyền bá có bài viết của tác giả Nguyễn Đình Tư (thiếu Thù chồng nợ nước tập I).

nguồn sống

nguồn sống

Nguồn Sống

Được đông đảo độc giả, giới nghiên cứu khoa học xã hội biết đến là nhà nghiên cứu lịch sử, địa chí, nhưng xuất phát điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư, lại là những truyện dài dành cho thiếu nhi. Khởi sự cho nghiệp viết lách ấy, phải quay về hơn 80 năm trước khi năm 1943, tác phẩm đầu tiên truyện dài mang tên “Nguyễn Xí” đăng trên báo Truyền bá số 85, ra ngày 10/6/1943 tại Hà Nội, viết về cụ tổ dòng họ. Lúc đó, chàng trai Nguyễn Đình Tư ở tuổi 23.

Báo Truyền bá khi ấy, có những cây bút đã thành danh, tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Thâm Tâm… Đây cũng là những tên tuổi bảo chứng cho Nhà xuất bản Tân Dân, đơn vị in ấn, phát hành loại báo in dạng sách nhỏ. Thế mà, chàng trai Nguyễn Đình Tư từ tỉnh lẻ Trung Kỳ đã "chen chân" được lên báo Truyền bá, và không chỉ có tác phẩm Nguyễn Xí.

Sẵn đà cảm hứng sáng tác, Nguyễn Đình Tư còn có những tác phẩm Dì ghẻ, con chồng trên Truyền bá số 103, ra ngày 14/10/1943, Thù chồng nợ nước tập II trên Truyền bá số 113, ra ngày 3/2/1944, Nguồn sống trên Truyền bá số 150, ra ngày 19/10/1944.

Những tưởng các tác phẩm của thuở ban đầu nghiệp viết ấy chỉ còn là kỷ niệm với nhà nghiên cứu bách niên khi những đầu báo in hơn 80 năm trước bởi những chảy trôi của thời gian không còn giữ lại được. May thay, Thư viện quốc gia Pháp vẫn còn lưu gần đầy đủ những số báo Truyền bá có bài viết của tác giả Nguyễn Đình Tư (thiếu Thù chồng nợ nước tập I).

hý kịch việt nam - ngàn năm đồng vọng

hý kịch việt nam - ngàn năm đồng vọng

Hý Kịch Việt Nam - Ngàn Năm Đồng Vọng

“Hơn 700 năm đã trôi qua kể từ Tây Vương Mẫu hiến bàn đào - tác phẩm sân khấu mang đủ đầy hình hài của một vở diễn hoàn chỉnh lần đầu tiên được chính thức ghi nhận trong lịch sử sân khấu nước ta. Trong quãng thời gian ấy, ba bộ môn sân khấu quan trọng nhất của người Việt là tuồng (hát bội), chèo và cải lương đã lần lượt ra đời và cùng nếm trải rất nhiều những thăng trầm, có lúc tưởng như bị đào thải. Vậy nhưng, chính những yếu tố đặc sắc riêng có ở mỗi bộ môn sân khấu, đặc biệt là yếu tố ca hát, đã đưa cả ba vượt qua thách thức để rồi cho đến ngày nay vẫn tiếp tục hiện diện trong đời sống tinh thần dân tộc như lời khẳng định mạnh mẽ về sự trường tồn của bản sắc nghệ thuật sân khấu Việt. Bước vào thế kỷ 21 siêu hiện đại, khi mà nghệ thuật biểu diễn nói chung và sân khấu nói riêng đã ít nhiều biển tưởng thành ngành công nghiệp giải trí showbiz, thêm vào đó, sức mạnh của xu hướng toàn cầu hóa cũng đang khiến bản sắc văn hóa nghệ thuật dân tộc dần mai một thì một điệu chèo rộn rã, một câu Hát Nam man mác hay một câu Vọng cổ chứa chan tình vẫn có một vị trí không thể thay thế trong những tâm hồn Việt. Những khúc thức tâm tình nước Nam ấy, cũng như những tiếng tình tang thuở xưa vẫn là những tọa độ văn hóa đủ sức neo lại tâm thức dân tộc giữa dòng biến dịch khôn cùng” - Bùi Quang Thắng

nguyễn xí

nguyễn xí

Nguyễn Xí

Được đông đảo độc giả, giới nghiên cứu khoa học xã hội biết đến là nhà nghiên cứu lịch sử, địa chí, nhưng xuất phát điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư, lại là những truyện dài dành cho thiếu nhi. Khởi sự cho nghiệp viết lách ấy, phải quay về hơn 80 năm trước khi năm 1943, tác phẩm đầu tiên truyện dài mang tên “Nguyễn Xí” đăng trên báo Truyền bá số 85, ra ngày 10/6/1943 tại Hà Nội, viết về cụ tổ dòng họ. Lúc đó, chàng trai Nguyễn Đình Tư ở tuổi 23.

Báo Truyền bá khi ấy, có những cây bút đã thành danh, tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Thâm Tâm… Đây cũng là những tên tuổi bảo chứng cho Nhà xuất bản Tân Dân, đơn vị in ấn, phát hành loại báo in dạng sách nhỏ. Thế mà, chàng trai Nguyễn Đình Tư từ tỉnh lẻ Trung Kỳ đã "chen chân" được lên báo Truyền bá, và không chỉ có tác phẩm Nguyễn Xí.

Sẵn đà cảm hứng sáng tác, Nguyễn Đình Tư còn có những tác phẩm Dì ghẻ, con chồng trên Truyền bá số 103, ra ngày 14/10/1943, Thù chồng nợ nước tập II trên Truyền bá số 113, ra ngày 3/2/1944, Nguồn sống trên Truyền bá số 150, ra ngày 19/10/1944.

Những tưởng các tác phẩm của thuở ban đầu nghiệp viết ấy chỉ còn là kỷ niệm với nhà nghiên cứu bách niên khi những đầu báo in hơn 80 năm trước bởi những chảy trôi của thời gian không còn giữ lại được. May thay, Thư viện quốc gia Pháp vẫn còn lưu gần đầy đủ những số báo Truyền bá có bài viết của tác giả Nguyễn Đình Tư (thiếu Thù chồng nợ nước tập I).

suy nghĩ thống kê trong đời thường

suy nghĩ thống kê trong đời thường

Suy Nghĩ Thống Kê Trong Đời Thường

Những người trong độ tuổi thanh xuân và đang yêu thường hay phàn nàn rằng trong những người bạn họ gặp, người nào có vóc dáng xinh đẹp thì người đó có xu hướng càng vô duyên. Tại sao có nghịch lí này? Khái niệm “selection bias” có thể giúp chúng ta giải thích hiện tượng này.

Có thể nói rằng ngưỡng P < 0.05 đã trở thành một loại sổ thông hành cho công bố khoa học. Bởi vì Công bố khoa học dẫn đến tài trợ, đề bạt, giải thưởng, và uy danh, nên giới nghiên cứu khoa học rất dễ bị cám dỗ bởi trị số này, và họ có thể làm tất cả để có P < 0.05. Những “thủ thuật” họ có thể làm bao gồm tra tấn dữ liệu (data torture) và P-hacking.P-hacking là một thuật ngữ tương đối mới chỉ hành vi phân tích chọn lọc và nhiều lần cho đến khi đạt được trị số P như mong muốn. Cứ 100 dữ liệu hoàn toàn “âm tính nhưng với P-hacking giới khoa học có thể biến 60 dữ liệu thành “dương tính". Trong thực tế, P-hacking rất ư phổ biến trong khoa học nhưng không ai muốn đề cập đến (do mắc cỡ) và do đó sản xuất rất nhiều kết luận sai và xạo.

Thống kê là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Khoa học thống kê giúp cho các nhà khoa học khai thác và khám phá những qui luật tiềm ẩn trong dữ liệu lớn. Tuy quan trọng như thế, nhưng đa số sinh viên đều cảm thấy khoa học thống kê là một môn học đáng sợ. Quyển sách này có mục đích đơn giản là làm cho bạn đọc yêu môn thống kê như là một nghệ thuật.

Bạn đọc sẽ làm quen với ý nghĩa và ứng dụng xác suất trong đời thường, và sẽ biết qua những qui luật thống kê hết sức thú vị và mang tính ứng dụng rất cao. Ai trong chúng ta cũng biết số trung bình là gì, nhưng qua cuốn sách này các bạn sẽ biết được lịch sử và sự ra đời của số trung bình như thế nào. Bạn đọc còn biết những nhà thống kê học lừng danh cùng những đóng góp của họ như Francis Galton, Karl Pearson, William Sealy Gosset (người phát kiến kiểm định t), Ronald Aylmer Fisher, C. R. Rao, David R. Cox, và Richard Doll.

cười gượng

cười gượng

Cười Gượng

Loài người chìm nổi lặn hụp trong biển khổ, mê mẩn say đắm những mùi trần, hễ ai làm cái nhân tình thì được cái quả tốt, ai làm cái nhân dữ ắt được cái quả xấu cũng như chú lập vườn, hễ trồng giống cam ngọt thì tự nhiên hưởng trái cam ngọt, còn trồng giống cam chua thì tự nhiên hưởng trái cam chua.

Tú tài Hồng Xương tính cưới vợ đặng lập gia thất, mà tư tình với cô Hảo lỡ có thai rồi lại ham giàu, bỏ cô Hảo đi cưới vợ khác, đó là gieo một cái nhân không tốt, thế thì làm sao mà hưởng cái quả tốt cho được.

-

Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó là sự tha hóa của con người trong sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới…

Ông đã để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo… Với lối viết bình dị, ngôn ngữ gần lời nói thường ngày, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh luôn được nhiều thế hệ người dân Nam bộ đón nhận bằng một tình cảm đặc biệt trân trọng.

kiến trúc đô thị và cảnh quan sài gòn - chợ lớn xưa và nay (tái bản 2024)

kiến trúc đô thị và cảnh quan sài gòn - chợ lớn xưa và nay (tái bản 2024)

Kiến trúc đô thị và cảnh quan Sài Gòn - Chợ Lớn xưa và nay

Tác giả: Nguyễn Đức Hiệp – Tim Doling – Võ Chi Mai

Lời nói đầu:

Cuốn sách này ra mắt bạn đọc là do sự hợp tác của các tác giả Nguyễn Đức Hiệp, Tim Doling và Võ Chi Mai với mục đích giới thiệu về hình ảnh, thông tin về cảnh quan, đường phố đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn từ thế kỷ 19 cho đến nay là Thành phố Hồ Chí Minh.

Các tác giả xuất thân từ những chuyên môn khác nhau như khoa học tự nhiên, xã hội và nghệ thuật vì thế góc nhìn là sự tổng hợp của các khía cạnh trên. Một thành phố có sức thu hút quyến rũ du khách và người dân không chỉ ở sức mạnh kinh tế, bề dày lịch sử của nó mà còn do cá tính nhân văn của cư dân và cảnh quan gây những ấn tượng, cảm hứng nghệ thuật cho cộng đồng và các sáng tác văn hóa nghệ thuật đa dạng của những nghệ sĩ. Mà cảnh quan đặc thù đó phát sinh và duy trì chính từ tư duy của con người và phản ảnh phong cách và triết lý sống của cư dân nơi đó. Một thành phố lớn có tầm vóc thu hút đều có các đặc tính trên và những người nhập cư cũng làm phong phú thêm đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa của thành phố mà họ được nuôi dưỡng đã bộc lộ được tài năng của họ. Một sự hỗ tương có lợi cho cá nhân và cộng đồng. Sự thanh lịch nhân văn đó cần được bảo trì và phát huy trong một hệ sinh thái năng động hữu cơ.

Chúng tôi hy vọng cuốn sách này sẽ giúp bạn đọc khám phá thêm vài khía cạnh văn hóa xã hội, cảnh quan và kiến trúc của thành phốSài Gòn - Chợ Lớn xưa và Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Tất nhiên, tập sách vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót vì đề tài này vốn dĩ rất phong phú, đa dạng. Chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung để giới thiệu cùng bạn đọc.

Nguyễn Đức Hiệp

Tim Doling

Võ Chi Mai

 

Giới thiệu:

Thành phố Hồ Chí Minh mà trước đây được gọi là Sài Gòn, dưới thời Pháp thuộc là thủ phủ của Nam kỳ lục tỉnh đã được luật sư Jules Blancsubé (1834-1888), thị trưởng Sài Gòn, khi ông qua Pháp một thời gian làm đại biểu Nam kỳ ở quốc hội Pháp, là người đầu tiên tuyên bố trong nhiều dịp khi nói về thành phố Sài Gòn, nơi ông sinh sống từ năm 1864 là “La Perle de l’Extrême-Orient” (Hòn ngọc Viễn Đông). Từ đó, thành phố được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” này đã cám dỗ nhiều nhà du hành vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.

Những người Anh khi ghé qua Sài Gòn từ Hồng Kông hay Singapore đều ghi trong ký sự và sách du hành đây là thành phố có thiết kế, cảnh quan và kiến trúc Á - Âu đẹp hơn so với hai thành phố Singapore và Hồng Kông. Ngày nay, Thành phố Hồ Chí Minh cũng thu hút nhiều du khách nước ngoài đến thăm vì thành phố này bên cạnh sự hiện đại vẫn còn những nét đặc thù riêng của nó mà không phải chỉ Hội An hay Hà Nội mới có.

Vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn ngày nay có lịch sử lâu đời. Được tạo thành do phù sa sông Đồng Nai và sông Sài Gòn từ thời kỳ địa chất Pleistocene (từ 2 triệu năm đến 13.000 năm trước đây). Con người đã có mặt ở lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai - Cửu Long cách nay hơn 40.000 năm trên đường thiên di từ Phi châu đến Đông Á và Úc châu. Thổ dân lâu đời nhất sống trong vùng là người Mạ.

Lưu dân người Việt bắt đầu từ thế kỷ 17 và người Hoa (quân sĩ nhà Minh bỏ Nam Trung Quốc ra đi về phương Nam) trước đó được chúa Nguyễn cho phép định cư vào giữa thế kỷ 17, khởi đầu sự hình thành của Sài Gòn - Chợ Lớn. Khi Nguyễn Ánh lấy lại thành Gia Định từ quân Tây Sơn năm 1788 thì nơi đây trở thành thành trì của nhà Nguyễn. Năm 1790, thành Sài Gòn được củng cố và xây kiên cố với kỹ thuật phòng thủ Vauban (thành Quy), trong thành xây các cung điện cho chúa Nguyễn.

“Ngày Kỷ Sửu, đắp thành đất Gia Định. Vua thấy thành cũ ở thôn Tân Khai chật hẹp, bàn mở rộng thêm. Dụ rằng: “Vương công giữ nước, tất phải đặt nơi hiểm yếu trước. Nay đất Gia Định mới thu phục, cần sửa thành trì cho bền vững để chỗ ở được vững mạnh”. Bấy giờ mới huy động quân dân để khởi đắp, hẹn trong mười ngày đắp xong. Thành đắp theo kiểu bát quái, mở tám cửa, ở giữa là cung điện, bên tả dựng nhà Thái miếu, phía sau miếu là kho tàng, bên hữu đặt cục Chế tạo, chung quanh là nhà tranh cho quân túc vệ ở. Giữa sân dựng kỳ đài ba tầng, trên làm tòa vọng đẩu bát giác, ban ngày kéo cờ, ban đêm thì kéo đèn làm hiệu lệnh cho các quân. Thành xong, gọi tên là Kinh thành Gia Định...”.

(Nguồn: Mộc bản triều Nguyễn)

Quyển sách này có mục đích trình bày những hình ảnh của các kiến trúc và cảnh quan đô thị theo tác giả là có giá trị về mỹ quan, văn hóa và lịch sử ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngoài ra còn có một số hình ảnh xưa và nay ở cùng địa điểm để ta có thể thấy sự thay đổi qua thời gian các cảnh quan, kiến trúc cùng với các sự kiện, thông tin về lịch sử và các câu chuyện liên quan tạo nên dấu ấn ký ức đô thị và đặc thù của thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.

Sài Gòn không phải chỉ là thành phố kinh tế mà còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa và chính trị của cả Nam bộ có ảnh hưởng từ nhiều vùng khắp đất nước. Đến thập niên 1930 và1940, Sài Gòn đãtrở thành thành phố quy tụ đủ sức mạnh kinh tế và tinh thần tri thức để sánh vai với các thành phố lớn ở Đông Nam Á và các nước khác.

Ngày nay Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố hiện đại nhưng vẫn còn giữ một phần nét đặc thù của mình và các di sản văn hóa lịch sử của nhiều thời kỳ trong suốt quá trình từ lúc thành lập cho đến ngày nay. Nơi đây đã và sẽ tiếp tục thu hút nhiều du khách đến thăm nếu chúng ta vẫn bảo tồn được các di sản kiến trúc văn hóa, cảnh quan đặc thù của thành phố “lịch sử” như ông Paul Beau cách đây hơn một thế kỷ đã từng gọi.

giữ cho rừng mãi xanh - keep the forest green - tập 1

giữ cho rừng mãi xanh - keep the forest green - tập 1

Giữ Cho Rừng Mãi Xanh - Keep The Forest Green - Tập 1

Bộ truyện song ngữ Anh – Việtgồm 3 quyển, độ dày mỗi tập 52 trang với 6 câu chuyện:Pan dũng cảm - Đôi bạn thân - Magpie yêu thương - Sarus sẽ về - Gấu chó tốt bụng - Civet được chữa lành. Tác phẩm đề cập đến việc bảo vệ các động vật hoang dã khỏi nguy cơ tuyệt chủng và bảo vệ nguồn tài nguyên vô giá từ rừng xanh.Rừng vô cùng quan trọng đối với đời sống con người. Nếu không có rừng, con người sẽ đối mặt với rất nhiều thảm họa. Chúng ta phải quyết tâm giữ được nguồn tài nguyên vô giá của đất nước trường tồn mãi mãi đến muôn đời sau.

Nhiều loài động vật hoang dã, đặc biệt là động vật trong Sách Đỏ đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng do con người săn bắt, buôn bán, tiêu thụ bất hợp pháp ngày càng nhiều. Con người đã có sự lầm tưởng về việc các bộ phận cơ thể của chúng có thể chữa bệnh, do đó bộ sách ra đời như một lời nhắn nhủ yêu thương gửi gắm đến các bạn nhỏ yêu động vật, yêu rừng: chúng ta cần hành động thật nhanh để bảo vệ động vật quý hiếm, bảo vệ số lượng cá thể các loài, hồi sinh những cánh rừng để giữ gìn nơi sinh sống cho động vật hoang dã.Sau mỗi câu chuyện là thông tin cần biết về 6 loài động vật hoang dã cần được bảo vệ như tê tê, cheo cheo, chim ác là, sếu đầu đỏ, gấu chó, cầy gấm.

Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

Liên Hệ