cẩm nang tư duy phản biện và lập luận hiệu quả (tái bản 2025)

cẩm nang tư duy phản biện và lập luận hiệu quả (tái bản 2025)

Cẩm Nang Tư Duy Phản Biện Và Lập Luận Hiệu Quả

Bạn tiếp cận với câu hỏi của một tiểu luận hoặc tranh luận theo cách nào? Bạn xem xét khẳng quyết mà những người khác đưa ra làm sao và đề xuất phản – khẳng quyết như nào? Và cách bạn cân nhắc điểm mạnh điểm yếu trong lập luận của chính bạn trước khi đưa hết chúng vào một kết luận thuyết phục?

Quyển sách dễ tiếp cận này đưa bạn từng bước từng bước vào nghệ thuật lập luận, từ suy tư về viết cái gì và viết làm sao, cho đến làm cách nào có thể củng cố các khẳng quyết của bạn, và làm sao đi đến một kết luận vững chắc. Được viết một cách hấp dẫn cùng với các tóm tắt đặc biệt hữu ích ở cuối mỗi chương, quyển sách này cho ta lời khuyên dễ dàng thực hiện theo khi đánh giá lập luận của những người khác và trình bày những lập luận hiệu quả của chính bạn. Điểm mạnh của quyển sách này nằm ở hướng dẫn dễ hiểu và sử dụng các lập luận có thực trong đời – vừa đương đại vừa trong lịch sử - và những câu hỏi có thực trong tiểu luận từ đủ các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Những ví dụ hấp dẫn, có liên quan, và thường vui vẻ, được sử dụng không phải để minh họa, nhưng để đưa ra các điểm tinh túy ta có thể học, kỹ thuật nào có thể vay mượn và những cạm bẫy cần tránh trong lĩnh vực tư duy phân tích và viết lách.

Cẩm Nang Tư Duy Phản Biện Và Lập Luận Hiệu Quả chắc chắn sẽ cải thiện tác phẩm viết lách của bất kỳ sinh viên nào mà cần phải chứng minh các kỹ năng then chốt của viết lách và tư duy phê phán. Nó có giá trị cho những chuyên gia đang cần đến các kỹ năng này (chẳng hạn nhà báo, luật sư, nhà nghiên cứu, chính trị gia) cũng y như cho bất kỳ ai có một lý lẽ cần trình bày và yêu thích làm điều đó một cách thuyết phục.

Colin Swatridge, là một giảng viên thỉnh giảng nhiều thâm niên tại bốn đại học ở Trung và Đông Âu, là giảng sư hàn lâm cho Open University Vương quốc Anh trong suốt 15 năm. Ông giảng dạy tư duy phản biện suốt nhiều năm cho các sinh viên Erasmus từ khắp châu Âu.

lịch sử việt nam qua chính sử trung hoa (tống sử, nguyên sử, minh sử, thanh sử cảo) (tái bản 2025)

lịch sử việt nam qua chính sử trung hoa (tống sử, nguyên sử, minh sử, thanh sử cảo) (tái bản 2025)

Lịch sử Việt Nam qua chính sử Trung Hoa (Tống sử, Nguyên sử, Minh sử, Thanh sử cảo)

Tác giả: Cao Tự Thanh (dịch và giới thiệu)

… Mặc dù còn phải tìm hiểu rất nhiều sử sách khác và từ nhiều nguồn khác, một số tư liệu về lịch sử Việt Nam chỉ qua vài bộ chính sử Trung Hoa trên đây cũng đã cho thấy nguồn sử liệu về Việt Nam ở nước ngoài cần được quan tâm toàn diện và thích đáng hơn nữa, và bởi vì việc biên soạn một bộ tín sử về lịch sử Việt Nam nói chung trong đó có lịch sử mười thế kỷ sau thời Bắc thuộc nói riêng hiện nay vẫn chỉ mới trong giai đoạn bắt đầu.

 

Lời nói đầu:

Từ trước Công Nguyên, người Việt cổ ở Việt Nam đã có lãnh thổ và tổ chức xã hội của mình, nhà nước sơ khai và ký ức tập thể của mình, tuy nhiên con đường trở thành một quốc gia của cộng đồng này lại là một con đường quá đỗi gian nan. Không chỉ lãnh thổ bị thôn tính, tổ chức xã hội bị tàn phá, nhà nước sơ khai bị thủ tiêu, mà cả ký ức tập thể cũng bị chia cắt, hủy diệt trở thành manh mún, tàn khuyết. Trong suốt cả ngàn năm Bắc thuộc, lịch sử của cộng đồng người Việt cổ chỉ được ghi chép bởi các sử gia Trung Hoa, mà nhiều lý do những ghi chép ấy cũng rất thiếu sót và phiến diện, nên không lạ gì mà sau khi giành được độc lập vào thế kỷ X, mặc dù có nhiều nỗ lực, chính quyền và trí thức Việt Nam thời phong kiến vẫn không thể xây dựng được bộ thông sử khả tín của Việt Nam dưới thời Bắc thuộc. Phần Tiền biên trong hai bộ thông sử quan trọng ở Việt Nam là Đại Việt Sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho thấy điều đó.

Nhưng phần Chính biên của hai bộ thông sử nói trên cũng không mấy khả quan. Các sử gia từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX gặp quá nhiều trở ngại mà trước hết là chiến tranh tàn phá sử liệu. Trong mười thế kỷ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX, không thế kỷ nào ở Việt Nam không có chiến tranh, cả chiến tranh với nước ngoài lẫn nội chiến hay xung đột quân sự giữa các lực lượng đối lập với nhau trong nước. Trước thế kỷ XX, cả ba trung tâm chính trị - văn hóa lớn ở Việt Nam là Thăng Long (Hà Nội), Phú Xuân - Thuận Hóa (Huế) và Gia Định (Sài Gòn) cũng không ít lần bị chiến tranh trực tiếp tàn phá. Quốc gia phong kiến Việt Nam phát triển một phần nhờ chiến tranh, nhưng sử học truyền thống Việt Nam lại thiếu sót một phần ví chiến tranh… Quyển Lịch sử Việt Nam qua chính sử Trung Hoa này góp phần bổ sung những thiếu sót ấy trước hết về mặt tư liệu.

Chính sử Trung Hoa tức Nhị thập tứ sử (Hai mươi bốn bộ sử), gồm chính sử các triều đại ở Trung Quốc được xác định trong đời Càn Long nhà Thanh tức Sử ký, Hán thư, Hậu Hán thư, Tam quốc chí, Tấn thư, Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư, Trần thư, Ngụy thư, Bắc Tề thư, Chu thư, Tùy thư, Nam sử, Bắc sử, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Cựu Ngũ đại sử, Tân Ngũ đại sử, Tống sử, Liêu sử, Kim sử, Nguyên sử, Minh sử. Đến đầu thế kỷ XX, chính quyền Trung Hoa Dân quốc chính thức thừa nhận thêm bộ Tân Nguyên sử của Kha Thiệu Mân, đưa con số chính sử lên thành hai mươi lăm bộ (Nhị thập ngũ sử). Ngoài ra còn có Thanh sử cảo do Thanh sử quán thành lập đầu thời Dân quốc tập hợp những ghi chép về lịch sử thời Thanh biên soạn, tuy không được coi là chính sử, nội dung cũng có rất nhiều sai lầm thiếu sót nhưng vẫn là một nguồn sử liệu quan trọng đã được nhiều người tham khảo và sử dụng. Quyển Lịch sử Việt Nam qua chính sử trung Hoa này giới thiệu những ghi chép có quan hệ với lịch sử Việt Nam trong bốn bộ Tống sử, Nguyên sử, Minh sử và Thanh sử cảo.

Về thể tài, bốn bộ sử nói trên theo khung biên soạn thống nhất của sử học truyền thống Trung Hoa, đều gồm bốn phần lớn là Bản kỷ, Chí, Biểu và Liệt truyện, trong đó những ghi chép có liên quan đến lịch sử Việt Nam chủ yếu nằm trong Bản kỷ và Liệt truyện. Trong quyển sách này, tư liệu trong mỗi bộ sử nói trên cũng đều được chia làm ba phần, phần I là truyện về Việt Nam trong Liệt truyện, phần II là những ghi chép có liên quan tới Việt Nam trong Bản kỷ, phần III là truyện về một số nhân vật Trung Quốc có liên quan tới lịch sử Việt Nam trong Liệt truyện. Riêng phần II chủ yếu là những sự kiện rời rạc được ghi chép ngắn gọn, nên quyển sách tổ chức thành những “điều” đánh số thứ tự từ 001 trở đi để người đọc tiện theo dõi.

Ngoài ra quyển sách còn có hai Phụ lục. Phụ lục I là bài chế văn của vua Gia khánh phong vương cho vua Gia Long do chúng tôi phục hồi nguyên bản chữ Hán và phiên dịch, chú thích, đã công bố trên tạp chí Nghiên cứu và phát triển (Huế) số 5 (131), 2016, cũng phù hợp với nội dung của quyển sách nên đưa in lại để người đọc tiện tham khảo. Phụ lục II là bảng đối chiếu niên hiệu và năm âm – dương lịch kèm danh sách các vị vua theo miếu hiệu, giúp đối chiếu và tra cứu niên hiệu của các chính quyền ở Việt Nam và Trung Quốc. Vì nội dung sách bắt đầu từ thời Tống và dừng lại ở thời Thanh, nên bảng này bắt đầu từ năm Tống Thái tổ lên ngôi (960) và dừng lại ở Cách mạng Tân Hợi (1912).

Ngoài Thanh sử cảo theo bản in lần thứ sáu của Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 2003, các bản Tống sử, Nguyên sử, Minh sử mà quyển sách dung để phiên dịch và giới thiệu đều thuộc bộ Nhị thập tứ sử, bản in thu nhỏ (xúc ấn bản) của Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 1997, ba bản này đều có phần hiệu khám. Các chú thích trong bản dịch do đó ngoài việc đánh số (1), (2) theo thông lệ còn có những chú thích kèm thêm dấu hoa thị, ví dụ (1*) tức có sử dụng phần hiệu khám của nguyên bản.

Nhìn chung những ghi chép có liên quan tới lịch sử Việt Nam trong các phần Bản kỷ, Liệt truyện của Tống sử, Nguyên sử, Minh sử và Thanh sử cảo đều có nhiều sai sót, dĩ nhiên không thể nhất nhất nêu ra nhưng có những chỗ cần phải chú thích hay điều chỉnh ở đây chủ yếu là các thư tịch Việt Nam như Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên, Đại Việt thông sử của Lê Quí Đôn, Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sỹ, Lịch triều hiến chương loại chí (Bang giao chí) của Phan Huy Chú, Đại Nam Liệt truyện Tiền biên, Đại Nam Thực lục Tiền biên, Đại Nam Thực lục Chính biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng…

Có vài điều cần nói thêm. Mặc dù tên sách là Lịch sử Việt Nam qua chính sử Trung Hoa, nhưng quyển sách này chỉ mới giới thiệu được tư liệu trong vài bộ chính sử của Trung Quốc từ Tống sử trở đi. Tư liệu trong các bộ sử trước đó cần có thời gian cũng như nhiều điều kiện khác mới có thể tiến hành phiên dịch và giới thiệu, nếu nói đây là một món nợ thì chúng tôi xin phép người đọc được trả sau. Bên cạnh đó, chữ Hán văn ngôn trong bốn bộ sử này được viết bởi nhiều sử gia từ các thời Nguyên Minh Thanh đến thời Dân quốc, sự đa dạng về tập quán và phong cách ngôn ngữ là một thực tế không dễ nắm bắt, bản dịch vì thế chắc chắn có nhiều  lầm lẫn sai sót, nên chúng tôi luôn mong chờ người đọc chỉ giáo thêm cho.

Sau cùng, từ  2005 khi biết chúng tôi có ý định tiến hành quyển sách này nhưng  gặp khó khăn về tư liệu, Giáo sư Li Tana ở Australia đã ân cần khuyến khích và hào sảng gửi mua ở Trung Quốc tặng cho bộ Nhị thập tứ sử, tiếc là vì nhiều lý do nên ngoài vài bài viết rải rác đến nay chúng tôi mới làm được điều mình mong muốn. Cho nên nhân dịp quyển sách được xuất bản, tôi muốn qua đây gởi tới chị  lời cám ơn chân thành về việc đã nhiệt tình giúp đỡ một người học sử ở Việt Nam tìm hiểu thêm lịch sử Việt Nam.

Tháng 11.2018

Cao Tự Thanh

Mười thế kỷ Việt Nam trong chính sử Trung Hoa

Việc tìm hiểu lịch sử Việt Nam có một tầm qua trọng không cần phải bàn cãi, tuy nhiên từ một cái nhìn trực quan vẫn có thể nói rằng thư tịch lịch sử thời phong kiến hiện vẫn còn nhiều khoảng trống đáng nghi ngại. Chỉ nói riêng việc phản ảnh lịch sử Việt Nam trước thế kỷ XX thì hai bộ thông sử lớn của Việt Nam là Đại Việt Sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục về cơ bản cũng không đáp ứng được yêu cầu trước hết về mặt tư liệu. Trong khi đó, thư tịch của một quốc gia láng giềng lâu đời là Trung Quốc chỉ nói trong phạm vi các bộ chính sử truyền thống cũng có không ít ghi chép về lịch sử Việt Nam trước thế kỷ XX. Nếu thừa nhận việc thu thập sử liệu về Việt Nam từ nguồn thư tịch của nước ngoài trong hoàn cảnh thông tin và kỹ thuật hiện nay đã trở thành điều khả thi , thì việc tìm hiểu Lịch sử Việt Nam trong mười thế kỷ sau thời Bắc thuộc đến trước thời Pháp thuộc qua chính sử Trung Hoa lại càng là điều cấp thiết.

Cũng như trong nhiều thư tịch lịch sử, lịch sử Việt Nam trong chính sử Trung Hoa hàm chứa hai lịch sử: Lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong đó nổi bật là quan hệ giữa các chính quyền của hai nước và lịch sử nhận thức của các chính quyền mà đại diện là nhiều thế hệ sử gia Trung Quốc về lịch sử ấy. Nhìn từ góc độ tính mục đích, sử liệu về Việt Nam ở đây được thu thập, giới thiệu chủ yếu nhằm tổng kết lịch sử quan hệ với các chính quyền ở Việt Nam của từng triều đại, tuy nhiên để nhận thức quá trình tương tác thì phải xác nhận chủ thể đối tác, nên việc tổng kết lịch sử bang giao với Việt Nam không thể tách rời việc giới thiệu lịch sử hình thành và hoạt động của các chính quyền ở Việt Nam. Việc phản ánh lịch sử Việt Nam ở đây do đó là một kết quả tự nhiên mang yếu tố ngẫu nhiên nằm ngoài mục tiêu của những người biên soạn, nhưng chính nhờ vậy mà nó lại ít nhiều mang tính khách quan. Cho nên đối với việc tìm hiểu lịch sử Việt Nam, ghi chép trong các bộ Tống sử, Nguyên sử, Minh sử và Thanh sử cảo của Thanh sử quán thời Dân quốc mặc dù có không ít sai lầm thiếu sót vẫn là một hệ thống sử liệu bổ sung mang tính gợi mở. Trong ý nghĩa này, việc tìm hiểu nội dung và tính chất, đặc điểm và giá trị của hệ thống sử liệu ấy là vấn đề cần được đặt ra.

kiến trúc pháp-đông dương - dấu tích "sài gòn-hòn ngọc viễn đông"

kiến trúc pháp-đông dương - dấu tích "sài gòn-hòn ngọc viễn đông"

Kiến Trúc Pháp-Đông Dương - Dấu Tích "Sài Gòn-Hòn Ngọc Viễn Đông"

Sài Gòn xưa - Thành phố Hồ Chí Minh nay cho đến hiện giờ vẫn là đô thị lớn bậc nhất cả nước. Trong quá trình kiến tạo Thành phố, khoảng thời gian 1862-1945 là giai đoạn hình thành và hoàn chỉnh của một đô thị tân tiến và hiện đại, khác hẳn mô hình thành thị phong kiến Á Đông trước đó. Công sức xây đắp của người Pháp và đông đảo người Việt cùng toàn bộ cư dân thuộc nhiều vùng miền tứ xứ, đã làm nên một đô hội mỹ lệ và nhộn nhịp, kết hợp nhiều yếu tố Đông - Tây, trên cơ sở thừa kế đô thị Gia Định xưa cổ.

Từ đầu thế kỷ 20, đặc biệt vào thập niên 1920 trở đi, chính quyền Đông Dương tự hào quảng bá Sài Gòn là La Perle de l’Extrême-Orient - Hòn ngọc Viễn Đông, một điểm đến không thể thiếu của du khách, các nhà đầu tư và bạn bè thế giới.

Trong thực tế, vẻ đẹp của Hòn ngọc Viễn Đông, không chỉ là cảnh sắc và phố phường mà là toàn diện từ Kiến trúc đến Kinh tế, Văn hóa và Con người. Trong đấy, chỉ riêng về kiến trúc, có nhiều kiến trúc hay đẹp từ dinh thự đến nhà ở, phố chợ và nhiều công trình khác, thể hiện nhiều phong cách đa dạng…

hội an lang thang phố nhớ-hình ảnh và ký ức - hoian wandering through the town of memories-art photos and memory notes

hội an lang thang phố nhớ-hình ảnh và ký ức - hoian wandering through the town of memories-art photos and memory notes

Hội An Lang Thang Phố Nhớ-Hình Ảnh Và Ký Ức - HoiAn Wandering Through The Town Of Memories-Art Photos And Memory Notes

Năm 1972, tôi đến Hội An và lưu lại đó hơn một năm, mở đầu cuộc mưu sinh. Trọ trong một ngôi nhà cổ ở cuối đường Cường Để (nay là đường Trần Phú). Cơm nước phía hạ Ông Bổn, ngủ nghê ở thượng Chùa Cầu. Tối thứ Bảy, chạy “Su 50” cà tàng về Đà Nẵng. Hồi đó, tôi mê chụp ảnh, nhưng chưa sắm đuợc máy và còn rất vô tư nên chớp ảnh như để mua vui. Sau đó, vào học và làm việc ở Sài Gòn. Mỗi Tết về Đà Nẵng, thế nào cũng dành một, hai buổi ôm máy ảnh đi chớp Hội An.

Tập sách này là kết quả của nhiều chuyến đi ngắn ngủi may mắn như thế, được trải dài từ thời bao cấp (năm 1980) đến năm 2024. Nhờ vậy, cảm nhận được phần nào đổi thay của Hoài Phố với thời gian. Những bức ảnh mãi còn lưu giữ những thân thương nhất, mặc tôi đã già đi cùng năm tháng.

Do đại dịch COVID-19, cửa đóng then cài kéo dài nhiều tháng, nhàn cư vi bất thiện, thôi thì “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng. Xếp tàn y lại để dành hơi”. Tôi bèn soạn kho ảnh, với suy nghĩ: Mỗi bức ảnh là một chứng nhân thời mình đã sống, cùng với chút vốn thực địa của một kẻ làm báo tự lo.

Và đó là mối duyên cho tập sách Hội An, lang thang phố nhớ này ra đời.

Ước mong góp lại chút gì mình có, trước khi tiếp tục cuộc hành trình…

– Tam Thái

ký ức đông dương (anh - việt - pháp) - bìa cứng

ký ức đông dương (anh - việt - pháp) - bìa cứng

Ký ức Đông Dương: Việt Nam - Campuchia - Lào

Mémoires D’ Indochine: Vietnam - Cambodge - Laos

Memories of Indochina: Vietnam - Cambodia - Laos

 (Bản bìa cứng phổ thông)

Tác giả: Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, Eric Bourdonneau, Philippe Lefailler, Michel Lorillard ; Nguyễn Thị Hiệp dịch tiếng Việt ; David Smith dịch tiếng Anh ; Olivier Tessier biên soạn ; Zac Herman hiệu đính

Ấn bản lần thứ nhất của Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) & Nhà xuất bản Magellan & Co, Paris, (Ký ức Việt Nam, 2013; Ký ức Lào,2015; Ký ức Campuchia, 2017) EFEO và Nhà xuất bản Magellan & Co giữ bản quyền.

“Ký ức Đông Dương: Việt Nam - Campuchia - Lào” hoàn thành in ấn vào tháng 6.2020 là bản in đầu tiên có 3 ngôn ngữ Anh - Pháp - Việt được ấn hành bởi sự phối hợp giữa NXB Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM và Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) Pháp tại Việt Nam sau hơn hai năm bắt tay thực hiện.

* Phần đầu giới thiệu về lịch sử hình thành và những tư liệu quý giá qua thời gian được lưu trữ kỹ lưỡng bởi Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) Pháp qua những chuyển biến của lịch sử. Những hình ảnh khắc sâu trong tim, về khoảnh khắc trong quá khứ, xuyên suốt ở ba quốc gia Việt Nam - Campuchia – Lào. Các khung cảnh sẽ xuất hiện trước mắt bạn như… Ký ức Việt Nam: cận cảnh Đông Dương, con người và truyền thống; mỹ thuật và kiến trúc, Phật giáo, lễ hội và nghi thức tôn giáo. Ký ức Campuchia: Khoa học - Mỹ thuật - Chính trị, Đất - Nước, nghi lễ hoàng cung, nhà sư và chùa chiền, thế giới “tách biệt”, khám phá. Ký ức Lào: tự nhiên và văn hóa, con người và thiên nhiên, lễ hội và truyền thống, thực hành Phật giáo. Tổng hợp tương quan về đa sắc tộc…

“Vốn chú trọng lối tường thuật, các nhà nghiên cứu vào cuối thế kỷ thứ 19 thường thích mang theo bên mình một cuốn sổ ghi chép, mặc dù họ cũng đã quen với những bức vẽ kỹ thuật vốn là những hình ảnh duy nhất được chấp nhận in kèm với các bài tạp chí chuyên ngành. Họ mô tả các chi tiết thông qua những ký họa giản lược khi không thể phó thác việc này cho thợ vẽ phụ tá của Viện. Đây quả là một công việc khó khăn vì để vẽ bằng than cần phải có óc quan sát, hoa tay và đặc biệt là phải có thời gian. Việc sử dụng ảnh giúp vượt qua được những trở ngại này đồng thời thoát khỏi các chuẩn mực gò bó của hội họa để thể hiện thực tế với độ chính xác như mong muốn. Các nhà khảo cổ học và dân tộc học của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp đã rất nhiệt tình ủng hộ và bảo vệ công cụ chụp ảnh mới này vì chuyên ngành mới của họ mang tính kỹ thuật và gắn liền với thực địa (cũng tương tự như các nhà địa lý và địa chất học nhưng với những lý do khác). Ảnh chụp khoảnh khắc cho phép lưu giữ lại một hoạt động, hiện tượng diễn ra trong chốc lát và khôi phục toàn bộ các chi tiết mà mắt thường có thể không ghi nhận kịp. Chẳng hạn như vạt áo bung lên của người H’Mông, một công đoạn khai quật cổ vật bị chôn vùi dưới lòng đất hay một công trình xây dựng của người Chăm có nguy cơ sắp biến mất. Ảnh sao chụp cho phép xếp sang bên cạnh một số chủ đề rồi tiếp tục nghiên cứu nó về sau, quay lại một chi tiết nào đó, so sánh chúng hoặc dùng làm cứ liệu”. - Ký ức Việt Nam - Cận cảnh phương Đông – Viện Viễn Đông Bác cổ pháp ở Việt Nam.

 

“Ba thập kỷ sau khi chuyển kinh đô từ Oudong về Phnom Penh, Phật viện Hoàng gia, chùa Preah Keo, bắt đầu được xây dựng bên cạnh hoàng cung vào năm 1892. Mối quan hệ giữa vua Norodom và chính quyền thuộc địa ngày càng căng thẳng vì chính quyền thuộc địa luôn tìm cách làm suy yếu quyền lực đế vương. Bức tượng vua cưỡi ngựa được dựng trước chùa Phật Ngọc là điểm nhấn, hình ảnh bảo hộ mới của vương triều, thể hiện đức vua mặc đồ chiến binh Pháp, chào kiểu nhà binh, đầu đội mũ lông vũ hai chỏm. Bức tượng này nổi tiếng vì phần thân được coi là của Napoléon III, chỉ thay thế phần đầu của đức vua. Từ khoảng giao thời giữa hai thế kỷ, hoàng gia có cái nhìn thù địch với chế độ Bảo hộ, vua Norodom là “Napoléon nhiệt đới” đang tiến lên, dưới sự bảo hộ của Preah Keo, để lấy lại tự do đã mất”.- Ký ức Campuchia - Nghi lễ hoàng cung

 

“Các bức ảnh là bằng chứng độc đáo làm toát lên cuộc sống êm đềm và giản dị ở Luang Prabang đầu thế kỷ 20. Trong những thập niên hai mươi, ba mươi của thế kỷ 20, các chuyến công tác ở Lào của EFEO rất hiếm khi được thực hiện ngay cả khi Viện vẫn còn rất nổi danh qua những ấn phẩm quan trọng như các nghiên cứu của Charles Robequain (1924-1926) (2), Suzanne Karpelès (1929-1933), Madeleine Colani (từ 1931-1935)(3) và Paul Lévy (1938-1940) hay những cuộc trùng tu của Louis Fombertaux (1929-1935). Những ảnh liệu còn lưu giữ chủ yếu liên quan đến cổ vật thời tiền sử hoặc những chi tiết về kỹ thuật xây dựng. Thời kỳ chuẩn bị và ngay sau đó là thời kỳ độc lập của Lào đi cùng với sự hồi sinh trong hoạt động của EFEO ở nước này. Một trụ sở của Viện được thành lập ở Viêng Chăn năm 1950 và tồn tại đến năm 1966. Henri Deydier (1922-1954) là thành viên phụ trách đầu tiên. Sự ra đi đột ngột do tai nạn khi ông mới 32 tuổi đã

chấm dứt nguyện ước của ông trong việc thực hiện một chương trình nghiên cứu táo bạo về tư liệu trong các tỉnh mà ông nhắm đến. Tuy nhiên, ông cũng đã có thời gian để kịp tập hợp một số dữ liệu thú vị về các bộ tộc người miền Bắc nước Lào. Một số lượng nhỏ ảnh liệu chụp vào năm 1953 và 1954 sau này mới được bổ sung vào các ghi chép thực địa của ông. Pierre-Bernard Lafont (1926-2008) người kế vị ông với tư cách là đại diện của EFEO ở vương quốc Lào sau độc lập đã tiếp tục một số nghiên cứu mà Henri Deydier khởi xướng”. - Ký ức Lào - Tự nhiên và văn hóa

-----

Giới thiệu:

Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) Pháp tại Việt Nam: 120 năm - Một lịch sử đồng hành.

Được thành lập ngày 20 tháng 1 năm 1900 tại Sài Gòn, Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO) có nhiệm vụ thu thập, thống kê, bảo quản và phân tích các yếu tố văn hóa và di sản của lục địa Á châu. Ngay từ buổi sơ khai, chủ yếu là các trí thức Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng qua việc thực hiện các công trình của EFEO. Vốn thuộc tầng lớp trí thức và có kiến thức sâu rộng, họ đã hỗ trợ tích cực cho các đồng nghiệp người Pháp hiểu được văn hóa Việt Nam, và vì vậy, một cách tự nhiên, họ là những người thầy đầu tiên của một số đồng nghiệp Pháp. Lập trụ sở tại Hà Nội năm 1902, EFEO từ đó đến nay trường tồn cùng với thời gian giữa lòng Hà Nội ở nhiều địa điểm và cơ quan khác nhau: Bảo tàng Finot, nơi lưu giữ những bộ sưu tập của EFEO, được xây dựng năm 1926, nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam; Bảo tàng Blanchard de la Brosse nay là Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh v.v.

Ngoài ra còn phải kể đến một thư viện lớn của Viện đã được bàn giao cho Viện Thông tin Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

Những năm tháng Đông Dương

Ngay sau khi thành lập tại Hà Nội, EFEO đã quan tâm tới các ngành xã hội nhân văn của Việt Nam xưa tỏa sáng bên cạnh văn minh Trung Hoa, từ lưu vực sông Hồng tới dãy Hoành Sơn phía Bắc và tới tận các vùng ở Thanh Hóa. Nguồn tư liệu thành văn dưới mọi hình thức, đặc biệt là thư tịch Hán Nôm đã trở thành tâm điểm của các chương trình bảo tồn và in rập đối với các loại tư liệu dễ bị hư hại nhất. Các nhà nghiên cứu Pháp và Việt Nam đã nghiên cứu với phương pháp khoa học về văn minh thư tịch, văn tự trong đó phải kể đến Nguyễn Văn Tố hay Raymond Deloustal, người đã có công trong việc làm sống dậy một quá khứ hào hùng, khai sáng ngành sử học cũng như nền tảng văn hóa xã hội của Việt Nam hiện đại.

Vào đầu thế kỷ 20, Henri Parmentier đã thể hiện sự quan tâm đối với khảo cổ học Chăm cổ và chính ông là người chỉ đạo những cuộc khai quật ở Mỹ Sơn, Đồng Dương và Chánh Lộ (1902-1904) và đã công bố công trình đồ sộ của mình

“Inventaire descriptif des monuments Cham de l’Annam” [Thống kê khảo tả những di tích Champa ở Trung Kỳ]. Chính từ đà này, ông đã sáng lập Bảo tàng điêu khắc Chăm - Đà Nẵng (1919). Trong những năm 1930, các cuộc khai quật được tiếp tục tại Tháp Mắm và Trà Kiệu dưới sự chỉ đạo của Jean-Yves Claeys.

Những công trình nghiên cứu của Louis Malleret đánh dấu cho một số nghiên cứu được thực hiện ở miền Nam Việt Nam. Sống tại Việt Nam trong một phần tư thế kỷ (1929-1957), chính Louis Malleret phát hiện ra thương điếm là bằng - 6 -chứng vật thể chứng minh sự tồn tại của Vương quốc Phù Nam. Các cuộc khai quật do ông chỉ đạo vào năm 1944 đã khám phá ra nền văn minh Óc Eo và làm nên công trình đồ sộ của ông: Khảo cổ học đồng bằng sông Cửu Long.

Song song với việc nghiên cứu thư tịch cổ và các cuộc khai quật khảo cổ, EFEO quan tâm tới các nghiên cứu văn hóa dân gian và di sản phi vật thể nhằm hiểu rõ hơn về không gian và môi trường của một nền văn minh vốn gắn với thực vật.

Làng được đặc biệt quan tâm nghiên cứu vì nó vừa là trung tâm của nền văn minh lúa nước, vừa là biểu tượng cho một quốc gia đa sắc tộc gắn kết trong khu vực Đông Nam Á.

Nhiều cuộc điều tra, khảo sát dân tộc học đầu tiên về các nhóm dân tộc trên bán đảo Đông Dương đã được các nhà nghiên cứu nghiệp dư thông tuệ - các thành viên thông tấn của Viện thực hiện. Có thể kể đến các binh sĩ, giáo viên hay các nhà truyền giáo, như cha Léopold Cadière, người sáng lập Hội Đô Thành Hiếu Cổ và tạp chí mang tên của Hội, những ấn phẩm của ông về tín ngưỡng và cuộc sống thường nhật của người Việt luôn là những tài liệu tham khảo không thể bỏ qua.

Ở EFEO, bộ môn dân tộc học đã được thành lập dưới sự chỉ đạo của Paul Lévy, ông tiếp nhận các chuyên gia về dân tộc học người Việt như Nguyễn Văn Huyên (sau này trở thành Bộ trưởng Bộ Giáo dục 1956-1975), Nguyễn Văn Khoan, Trần Văn Giáp, v.v.

Qua các chương trình khảo sát thực địa, họ đã dựng nên bản đồ dân tộc học ngôn ngữ đầu tiên của Đông Dương, hoàn thành vào năm 1941, công bố các cuốn từ điển và tập hợp được một phông ảnh liệu đồ sộ. Về sau còn có sự xuất hiện của những nhà nghiên cứu trẻ như Georges Condominas (1947), nhà ngôn ngữ học Georges Haudricourt (1948) hay cả Jean Boulbet (1966). Tất cả các học giả này đã góp phần tạo nền móng để ngành dân tộc học hiện đại của Việt Nam dựa vào đó để phát triển.

Năm 1957, việc di dời EFEO về Paris đã được thực hiện một cách rất hệ thống, EFEO đã chuyển giao với trách nhiệm cao nhất toàn bộ các khu nhà, bảo tàng và những bộ sưu tập mà EFEO đang sở hữu cho chính quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Những hoạt động của EFEO ở Việt Nam từ 25 năm nay

Chính sách mở cửa của Việt Nam đã cho phép thành lập một trung tâm EFEO mới tại Hà Nội năm 1993 và sau đó là trung tâm thứ hai tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2012, nằm trong hệ thống 18 trung tâm tại châu Á.(1)

Tiếp nối truyền thống nghiên cứu về Việt Nam xưa, ngay từ đầu những năm 1990, EFEO đã khởi xướng “Dự án xuất bản Thư mục và Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam” do Philippe Papin điều phối với sự hợp tác của Viện Hán Nôm (VASS). Dự án này đã cho phép xuất bản, bảo tồn 22.000 thác bản văn bia do EFEO in rập từ 1911 đến 1954. Bộ Tổng tập đồ sộ này gồm 22 quyển. Ngoài ra còn có 12 tập thư mục mô tả chi tiết từng tấm bia. Đây chủ yếu là những tư liệu tồn tại từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 20 ở các làng xã miền Bắc, như văn tự công đức, hợp đồng cung tiến, phong tục tập quán, quy định về chợ búa, về những thỏa ước, giao kèo giúp chúng ta hiểu được cuộc sống thường nhật của nông thôn Việt Nam xưa.

Việc thu thập các bản thảo cổ bằng chữ viết của người Dao cũng đã được thực hiện với cùng một cách tiếp cận như trên để bảo tồn di sản chữ viết. Dự án này do Giám đốc Sở Văn hóa tỉnh Lào Cai, ông Trần Hữu Sơn, Philippe Le Failler (EFEO) và Bradley Davis (Trường Đại học Washington) thực hiện đã cho phép sưu tập được 14.000 văn bản viết tay, trong đó 1.000 văn bản đã được số hóa.

Nhưng giấy viết, dù được thực hiện trên nền chất liệu nào, cũng không phải là hình thức duy nhất được con người sử dụng để ghi lại thực tế cuộc sống hàng ngày hoặc các sự kiện quan trọng. Các hình khắc trên đá ở Sa Pa được tìm thấy ở trên sườn núi khu vực thung lũng thuộc tỉnh biên giới Lào Cai cho đến nay vẫn chưa biết tác giả của chúng là ai cũng như thời điểm ra đời chính xác của các hình khắc chạm này. Ta có thể phân biệt được những nét khắc hình người hoặc hình khắc các đồ vật lao động nông nghiệp thường nhật. Vào năm 2005, EFEO và tỉnh Lào Cai đã quyết định thực hiện việc thống kê có phương pháp các hình khắc đá này và nhờ đó đã ấn hành tập thư mục giới thiệu bãi đá có hình khắc cổ ở huyện Sa Pa và một nghiên cứu phân tích phong cách tranh khắc vào năm 2012.

Một lĩnh vực khác được Viện đặc biệt chú trọng là khảo cổ học. Trong số các chương trình được tiến hành từ 25 năm nay, có thể kể đến dự án nghiên cứu di chỉ khảo cổ Hoàng thành Thăng Long được khởi xướng vào tháng 12 năm 2002 đã huy động nhiều thành viên của Viện tham gia. Cũng chính trên diện tích một vài héc-ta này, trung tâm chính trị của Việt Nam đã được thiết lập từ hơn một thiên niên kỷ trước. Hợp tác khoa học giữa Trung tâm EFEO tại Hà Nội và Viện Khảo cổ đã khởi đầu, cùng với một số chương trình khác, việc thành lập bảo tàng khảo cổ mang tên Bảo tàng Hà Nội - nghìn năm Thăng Long.

Ở miền Trung, có một chương trình nghiên cứu về lịch sử xã hội miền Trung Việt Nam trong mối quan hệ văn hóa giữa Champa với Đại Việt và các dân tộc vùng cao. Năm 2005, việc phát hiện ra Trường lũy ở tỉnh Quảng Ngãi (dài 127km được người Kinh và người H’rê xây dựng vào năm 1819) đã giúp nhìn nhận lại vấn đề đồng nhất giữa các nhóm dân cư khác nhau trong vùng (thế kỷ 15 - thế kỷ 19) và các mối quan hệ trung tâm - ngoại vi.

Nghiên cứu về nông thôn luôn luôn có vị trí đặc biệt trong các công trình nghiên cứu của EFEO. Cần phải nói rằng trong vòng hơn một thế kỷ, những nghiên cứu về người nông dân Việt Nam ở một đất nước thuần nông đã nỗ lực xác định một hình mẫu về “làng truyền thống” được định hình như một không gian khép kín, tự cung tự cấp và có khả năng tự lập tự trị rất cao. Trong một nghiên cứu so sánh đã được triển khai thực hiện trong vòng bốn năm trên bốn ngôi làng thuộc châu thổ sông Hồng, thế giới nông thôn thể hiện một phương diện hoàn toàn khác khi nó được định vị dưới góc độ trao đổi, sự linh động về thiết chế cùng với những biến chuyển về không gian xã hội và chính trị.

Nỗ lực tìm hiểu về xã hội nông thôn Việt Nam đặt ra câu hỏi trọng tâm về mối quan hệ Nhà nước – Địa phương được xem xét dưới góc độ quản lý nước và thủy lợi mà sự hiện diện khắp nơi của nước tạo nên cảnh quan và thấm đẫm văn hóa nhân sinh. Các nghiên cứu đề cập đến quá khứ, qua các phân tích sự thay đổi chính sách thủy lợi của đồng bằng châu thổ sông Hồng (thế kỷ 12 đến thế kỷ 20), cũng như đề cập đến các phương thức hiện tại về quản lý nguồn nước ở lưu vực sông Đồng Nai và ở miền Nam.

Cuối cùng, trước khi kết thúc bài giới thiệu ngắn này, không thể bỏ qua các ấn phẩm của EFEO tại Việt Nam. Ấn phẩm được chia thành hai bộ danh mục (Thư viện Việt Nam và Tư liệu phục vụ cho nghiên cứu Lịch sử: 15 cuốn sách và 7 ấn phẩm điện tử) và bộ sưu tập sách đặc biệt (34 công trình). Từ năm 1993, 6 dự án xuất bản lớn đã được thực hiện trong đó có công trình in bằng ba ngôn ngữ, kèm chú giải tác phẩm của Henri Oger “Technique du Peuple Annamite” [Kỹ thuật của người An Nam], (1909), ấn phẩm trọn bộ “Địa chí thời vua Đồng Khánh” (306 bản đồ in màu) và ấn bản điện tử 120 số của tập san Những người bạn cố đô Huế.

OLIVIER TESSIER (EFEO)

Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Việt Nam: 120 năm - Một lịch sử đồng hành.

hôm nay với nho giáo

hôm nay với nho giáo

Hôm Nay Với Nho Giáo

“Nho giáo được truyền vào nước ta bởi phong kiến nhà Hán xâm lược hồi những năm cuối thế kỷ I trước Công nguyên. Suốt hơn mười thế kỷ lệ thuộc phong kiến phương Bắc, Nho giáo và Nho học đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều lãnh vực đời sống con người Việt Nam, trong đó có tư tưởng, văn hóa, văn học nghệ thuật… Nhưng khi cha ông ta đã giành lại độc lập tự chủ, nghĩa là phong kiến Trung Quốc xâm lược bị nhân dân ta đánh đuổi phải rút chạy về nước, thì Nho giáo và Nho học vẫn còn tồn tại và vẫn tiếp tục truyền bá trên quê hương đất nước chúng ta…

Và cho dù hôm nay, Nho giáo và chế độ giáo dục Nho học không còn tồn tại ở nước ta cũng như ở các nước thuộc khu vực văn hóa chữ Hán trước đây, nhưng những tư tưởng của Nho giáo vẫn lan tỏa ảnh hưởng, vẫn tiềm tàng một sức sống trong tâm lý, trong lối ứng xử của mỗi cá nhân, trong cộng đồng dân cư từ làng xã đến khu phố thị thành…

Nhật Bản, Hàn Quốc, rồi Singapore sở dĩ trở thành những con rồng châu Á vươn cao là nhờ biết tiếp thu rồi vận dụng và phát huy những yếu tố nhập thế tích cực của Nho giáo để phát triển đất nước. Tại xứ sở sản sinh ra Nho giáo cũng vậy, vài chục năm trở lại đây, nhà cầm quyền đã thức tỉnh và đã phát huy thế mạnh này để đưa đất nước trở thành một trong hai nền kinh tế lớn nhất thế giới. Thế thì, ai bảo Nho giáo là trì trệ, là cổ hủ, là cản trở bước phát triển xã hội? (trích Lời cuối sách – PGS.TS. Nguyễn Công Lý)

phan yên thành binh biến ký - toàn cảnh cuộc nổi dậy của lê văn khôi

phan yên thành binh biến ký - toàn cảnh cuộc nổi dậy của lê văn khôi

Phan Yên Thành Binh Biến Ký - Toàn Cảnh Cuộc Nổi Dậy Của Lê Văn Khôi

“Các lực lượng tham gia nổi dậy chủ yếu là quan lại cấp thấp cũ của Gia Định Thành dưới quyền Tả quân Lê Văn Duyệt, lực lượng lính cựu tù phạm có gốc Bắc Kỳ (các đội Hồi lương, Bắc thuận, An thuận, Thanh thuận và những người từ những đội đó bỏ trốn), các tù phạm, người theo đạo Công giáo, người Hoa, một bộ phận người dân tộc thiểu số. Đó là những nhóm xã hội chịu tổn thương ở những mức độ khác nhau khi Gia Định Thành bị giải thể, chính sách bảo trợ của Tả quân Lê Văn Duyệt đối với họ bị thủ tiêu và những chính sách mới bất lợi cho họ được vua Minh Mạng áp đặt. Điều này lý giải vì sao càng ra xa Sài Gòn thì sự ủng hộ dành cho quân nổi dậy càng yếu. Trong suốt thời gian dài bị vây hãm, không có cuộc nổi dậy nào diễn ra ở Nam Kỳ nhằm “hưởng ứng” quân nổi dậy trong thành Bát Quái. Nó cũng lý giải những mức độ ủng hộ khác nhau giữa các nhóm đối với sự nghiệp của quân nổi dậy. Có thể thấy rằng, quân nổi dậy là một tập hợp rời rạc và lỏng lẻo của các nhóm yếu thế có cùng chung kẻ địch là vua Minh Mạng”.

Trích nội dung sách Phan Yên thành binh biến ký

tết chốn vàng son

tết chốn vàng son

Tết Chốn Vàng Son

Tết Nguyên Đán là ngày lễ quan trọng nhất của các nước Á Đông từ thời xa xưa. Ngày Tết là ngày nghỉ ngơi, mọi nhà, mọi người hướng về gia đình, tổ tiên. Trong cung đình xưa cũng vậy, triều đình Việt Nam thời phong kiến nghỉ Tết từ khá sớm, trở lại làm việc muộn, với rất nhiều nghi lễ phức tạp. Nhờ khoảng nghỉ dài, các quan và người hầu cận vua cũng có thể chăm lo cho cái Tết của gia đình.

Các độc giả ngày nay sẽ tò mò: Vậy vào ngày Tết, vua nước Việt ăn Tết như thế nào? Triều đình có những nghi lễ gì, tổ chức ra sao? Những chuyện này tuy không có sách nào ghi cụ thể, nhưng rải rác trong chính sử và các sách khác cũng khá nhiều chi tiết để có thể giải đáp cho độc giả.

Đây là cuốn sách viết về phong vị vàng son một thuở của cha ông ta trong những ngày Tết đến xuân về. Tác giả Lê Tiên Long chủ yếu dựa vào những cuốn sách chính sử đồ sộ của cha ông, làm cái công việc tỉ mẩn là lọc lựa, biên chép, kết nối các sự kiện, nhân vật, chuyện kể, hình thành những câu chuyện nhỏ, để người của hôm nay biết chuyện của hôm xưa, nơi chốn cung đình đã đón xuân, ăn Tết như thế nào. Chỉ có điều nó không phải một cuốn sử theo nghĩa thông thường, mà mang cái phong vị dân dã, khiêm cung, dẫu viết chủ yếu về những nghi lễ rắc rối phức tạp ở nơi chốn uy nghiêm, sang trọng bậc nhất trong thời kỳ phong kiến là cung đình!

đưa vào triết học

đưa vào triết học

Đưa Vào Triết Học

Mục đích của những giờ triết học năm thứ nhất Văn khoa là để giúp cho sinh viên hiểu được triết học là gì, hay thế nào là suy luận triết học, và sau đó, biết đặt một số vấn đề căn bản trong Triết học.

Muốn thực hiện việc dẫn dắt sinh viên vào triết học, tôi không bắt đầu bằng những định nghĩa triết học hay bằng cách trình bày những hệ thống triết học, nhưng bằng cách căn cứ vào những kinh nghiệm thông thường của đời sống hằng ngày, và vào những vốn kiến thức mà sinh viên đã có, nhất là kiến thức chuyên môn (Sử, sinh ngữ, văn học sử).

Việc dẫn dắt này nhằm làm cho sinh viên thấy Triết học không phải là cái gì xa xôi, trừu tượng, nhưng là cái sống thực, cái gắn liền với cuộc đời của chúng ta, cái ta vẫn cảm nghĩ, làm mà chỉ chưa phản tỉnh để tra hỏi về ý nghĩa, giá trị của nó mà thôi.

Nói cách khác, mục đích nhằm gây một thức tỉnh triết lý hơn là cung cấp một tri thức triết học. Sự thức tỉnh đó có thể xảy ra ngay từ bây giờ hay sau này, trên đường đời, mà sự gặp gỡ làm quen qua những giờ suy nghĩ, đối thoại này đã tạo điều kiện thuận tiện.Đó là điều cốt yếu, và cũng là ước muốn thực sự của người làm việc dẫn dắt, đưa vào triết học.

tôn giáo - đào duy anh

tôn giáo - đào duy anh

Tôn Giáo

“Nay đối với tôn giáo tạm hạ một cái định nghĩa nhưng cũng thực khó, ta dẫu nói thế này, vị tất đã là hợp lẽ; và lại những người không tín ngưỡng tôn giáo thời đều cho tôn giáo là không tốt, không nên tín ngưỡng, thế mà bọn giáo đồ tín giáo họ lại cho tôn giáo là tốt là hay, phải nên sùng kính, vì thế nên ở khoảng giữa hai con đường rẽ là giáo đồ với phi giáo đồ, mà muốn định nghĩa cho tóm tắt, thực là khó lắm. Ta không phải là giáo đồ, vậy cũng chỉ nói tạm một câu: Tôn giáo thời có mấy cái điều kiện để quản thúc sự hành vi của người ta, cùng là quy định cái chuẩn tắc của sự hành vi cho đời người, bắt buộc người ta phải tín ngưỡng, cái thế lực làm cho du nhập vào lòng người và cái tín ngưỡng người ta đối với tôn giáo, chỉ là vì cảm tình và uy bách, chứ thực không phải có cái tín ngưỡng hợp với lý tính vậy.” - Bertrand Russell

Đào Duy Anh

Sinh (1904 - 1988) sinh ra ở Thanh Hóa, quê gốc ở Hà Nội. Ông tốt nghiệp Thành chung tại trường Quốc học Huế năm 1923, sau đó dạy học tại trường Tiểu học Đồng Hới (Quảng Bình). Năm 1926, ông cùng chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng thành lập báo Tiếng-dân, đồng thời gia nhập Việt Nam Cách mạng đảng. Sau thời gian bị bắt do hoạt động cách mạng (1929), ông chuyển sang con đường hoạt động văn hóa và cống hiến cho khoa học tới tận những năm cuối đời.

Sinh thời, học giả Đào Duy Anh đã thực hiện trên 30 công trình nghiên cứu, được in thành khoảng hơn 60 tập sách, ngoài ra còn tham gia hiệu đính, biên tập và chú giải cho hàng chục đầu sách khác. Phạm vi nghiên cứu của ông bao quát rất nhiều lĩnh vực, và ở lĩnh vực nào cũng đạt được thành tựu đáng kể, như sử học, địa lý, từ điển, ngôn ngữ, văn hóa và văn học dân gian. Những công trình nghiên cứu của học giả Đào Duy Anh được xem là “mang tính khai phá đặt nền tảng cho sự hình thành nền sử học và nền văn hóa học hiện đại Việt Nam”. Tên ông được ghi trong Từ điển Larousse với tư cách là một nhà bách khoa thư của thời hiện đại.

bộ gia định - sài gòn - thành phố hồ chí minh: dặm dài lịch sử (1698-2020) - tập 2: 1945-2020 - bìa cứng (tái bản 2023)

bộ gia định - sài gòn - thành phố hồ chí minh: dặm dài lịch sử (1698-2020) - tập 2: 1945-2020 - bìa cứng (tái bản 2023)

Gia Định - Sài Gòn - Thành Phố Hồ Chí Minh: Dặm Dài Lịch Sử (1698-2020) -Tập 2: 1945-2020 - Bìa Cứng

"Lâu nay đã có nhiều người viết về thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng mỗi người chỉ viết về một vấn đề, một mảng của Thành phố, chưa có tác phẩm nào viết bao quát toàn diện các khía cạnh, các lĩnh vực hoạt động của Thành phố. Ngay như bộ sách Địa chỉ văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ nói một cách đại cương về lĩnh vực lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng, tôn giáo, mà không nói đến các lĩnh vực khác. Nay với tác phẩm này, tôi muốn cung cấp cho độc giả một cái nhìn bao quát, toàn diện, cụ thể các giai đoạn lịch sử, từ năm 1698 đến năm 2020, các chế độ chính trị, các lĩnh vực hoạt động về hành chính, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, tôn giao fin ngưỡng, thể dục thể thao, v.v... của từng thời kỳ. Tóm lại tác phẩm này vi như một tập cẩm nang mà mọi cơ quan, can bộ, công chức, mọi gia đình trong Thành phố nên có để khi muốn fim kiếm một vấn đề gì liên quan đến Thành phố, chỉ việc mở sách ra là được thỏa mãn ngay, khỏi phải đi tìm đâu xa".

-Trích Lời nói đầu-

bộ gia định - sài gòn - thành phố hồ chí minh: dặm dài lịch sử (1698-2020) - tập 1: 1698-1945 - bìa cứng (tái bản 2023)

bộ gia định - sài gòn - thành phố hồ chí minh: dặm dài lịch sử (1698-2020) - tập 1: 1698-1945 - bìa cứng (tái bản 2023)

Gia Định - Sài Gòn - Thành Phố Hồ Chí Minh: Dặm Dài Lịch Sử (1698-2020) - Tập 1: 1698-1945 - Bìa Cứng

"Lâu nay đã có nhiều người viết về thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng mỗi người chỉ viết về một vấn đề, một mảng của Thành phố, chưa có tác phẩm nào viết bao quát toàn diện các khía cạnh, các lĩnh vực hoạt động của Thành phố. Ngay như bộ sách Địa chỉ văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ nói một cách đại cương về lĩnh vực lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng, tôn giáo, mà không nói đến các lĩnh vực khác. Nay với tác phẩm này, tôi muốn cung cấp cho độc giả một cái nhìn bao quát, toàn diện, cụ thể các giai đoạn lịch sử, từ năm 1698 đến năm 2020, các chế độ chính trị, các lĩnh vực hoạt động về hành chính, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, tôn giao fin ngưỡng, thể dục thể thao, v.v... của từng thời kỳ. Tóm lại tác phẩm này vi như một tập cẩm nang mà mọi cơ quan, can bộ, công chức, mọi gia đình trong Thành phố nên có để khi muốn fim kiếm một vấn đề gì liên quan đến Thành phố, chỉ việc mở sách ra là được thỏa mãn ngay, khỏi phải đi tìm đâu xa".

- Trích Lời nói đầu

văn hóa đô thị

văn hóa đô thị

Văn hóa không chỉ là khái niệm, mà còn được coi là thành quả. Đó là cột mốc mở ra các thời đại văn minh của loài người. Cách nay hàng vạn năm, nhờ các hoạt động trồng trọt và sản xuất nông nghiệp, loài người đã vượt qua thời kỳ dài săn bắt - hái lượm. Họ không còn lệ thuộc vào tự nhiên để sinh tồn. Họ khai thác, chinh phục tự nhiên, biến tự nhiên thành văn hóa, nhờ phát triển nhận thức. Kể từ đó, loài người bắt đầu tạo lập đời sống riêng của mình, xây dựng "Thế giới tự nhiên thứ hai", được gọi là quá trình đô thị hóa. Đô thị là quá trình con người tạo lập nên đời sống. Từ thời cổ trung đại đến hiện đại, đô thị đã trải qua nhiều hình thái. Chức năng của đô thị là nối dài sự phát triển của văn hóa, đáp ứng các nhu cầu phong phú, đa dạng của con người. Trong quá trình này, con người đã sáng tạo ra một loạt các thành quả văn hóa, trên các lĩnh vực tư tưởng, tôn giáo, khoa học, giáo dục, kinh tế, công nghệ và nhiều thiết chế khác. Đô thị vừa có vai trò quan trọng trong quá trình tiến hóa, vừa có xu thế lan tỏa trên mọi phạm vi không gian. Đô thị trở thành môi trường sống của loài người, trong các tương quan hài hòa với thế giới tự nhiên, đồng bộ về kỹ thuật tiện ích, để con người ngày càng văn minh, tiến bộ.

Nước ta đang trong quá trình đô thị hóa. Bên cạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, càng cần phải chú ý đến đô thị hóa, với các thành quả văn minh của nhân loại, để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), nhằm mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hiện nay, nhiều công trình đã khảo cứu đô thị về các phương diện lịch sử, xã hội, địa lý hoặc nhân học, nhưng tiếp cận đô thị về văn hóa còn ít được quan tâm trong khi khái niệm văn hóa cho đến nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau. Công trình Văn hóa đô thị của tác giả Trần Ngọc Khánh xuất bản lần đầu năm 2012, được tác giả tiếp tục chỉnh sửa hoàn thiện.

người mỹ da đen trong bản đồ văn học mỹ

người mỹ da đen trong bản đồ văn học mỹ

Người Mỹ Da Đen Trong Bản Đồ Văn Học Mỹ

Công trình này sẽ phác thảo hình ảnh người da đen trong văn học Mỹ từ ngày đầu lập quốc đến hết thế kỷ XX từ điểm nhìn tự bên trong của chính người da đen, và điểm nhìn bên ngoài của người da trắng. Nội dung trọng tâm của chuyến luận sẽ đi vào tìm hiểu vấn đề người da đen từ cảm quan nghệ thuật của ba nữ nhà văn nổi tiếng với các tác phẩm viết về người da đen tiêu biểu nhất, trở thành những hiện tượng văn học nổi bật không chỉ của thời đại mà nó ra đời: Túp lều bác Tom (Uncle Toms Cabin, 1852) của Harriet Beecher- Stowe, Cuốn theo chiều gió (Gone with the Wind, 1936) của Margaret Mitchell và tiểu thuyết của Toni Morrison trong đó trọng tâm là Bài ca Solomon (Song of Solomon, 1977). Ba nhà văn này không chỉ thuộc về những sắc tộc và thời đại khác nhau mà họ còn sống trong những môi trường văn hóa khác nhau, có thể mang tính chất đại diện cho những vùng văn hóa khác nhau của nước Mỹ. Vì vậy, quan điểm của họ có thể xem là tiếng nói đại diện về/của người da đen trong suốt chiều dài hơn 400 năm lịch sử, trong chiều rộng không gian và chiều sâu văn hóa. Đây là điểm cốt lõi để có thể khảo sát người da đen trong bản đồ văn học, bản đồ văn hóa Mỹ.

Trải qua thời gian, các quan niệm, các hệ giá trị đều có thể thay đổi; từ quan điểm hôm nay để đánh giá lại các hiện tượng văn học, văn hóa trong quá khứ cũng chỉ là một cách nhìn và cũng có thể bị tương lai phủ nhận. Trong nỗ lực phục dựng lại hành trình hiện diện của người da đen trong văn học Mỹ, chúng tôi cố gắng lý giải các tác giả, tác phẩm hoặc quá trình tâm lý của nhân vật trong bối cảnh thời đại mà tác giả, tác phẩm hay nhân vật thuộc về. Có những giá trị thuộc về một thời, cũng có những hiện tượng bất tử và văn chương nói riêng, nghệ thuật nói chung có thể bất tử hóa giá trị một thời, những công việc của người nghiên cứu phải trả tác phẩm trở về đúng tinh thần của thời đại đó.

viết luận văn khoa học bằng tiếng anh - writing a scientific paper in english

viết luận văn khoa học bằng tiếng anh - writing a scientific paper in english

Viết Luận Văn Khoa Học Bằng Tiếng Anh - Writing A Scientific Paper In English

Tập chuyên khảo này là nội dung thuyết giảng cho các nhà nghiên cứu trẻ của Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Thiết kế Vi mạch (tiếng Anh là Integrated Circuit Design Research and Education Center, viết tắt là ICDREC) thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trong thời gian vài tháng giữa năm 2009, nhằm nâng cao trình độ viết luận văn khoa học kỹ thuật của các nhà nghiên cứu trẻ này.

Lúc đầu, tuy đại bộ phận những người này còn ở độ tuổi trên dưới 30, nhưng đã tốt nghiệp các đại học hàng đầu của Việt Nam, một số có học vị thạc sĩ, tiến sĩ, tác giả đã có ý định chỉ thuyết giảng sơ lược về bố cục, cách trình bày của một luận văn khoa học mà thôi. Nhưng trong quá trình thuyết giảng, và qua kiểm tra năng lực viết tiếng Anh phổ thông của các học viên, tác giả thấy nên thêm vài phần có liên quan đến văn pháp, cú pháp, cách xây dựng, làm giàu từ vựng phổ thông. Những phần thêm này không có tham vọng thay thế một sách phổ thông về văn pháp, cú pháp tiếng Anh. Mục đích ở đây chỉ là nêu lên những gì mà một nhà khoa học khi viết luận văn bằng tiếng Anh cần chú ý về văn pháp, cú pháp mà thôi.

cẩm nang tư duy ngụy biện - nghệ thuật đánh lừa và thao túng (tái bản 2023 )

cẩm nang tư duy ngụy biện - nghệ thuật đánh lừa và thao túng (tái bản 2023 )

Cẩm Nang Tư Duy Ngụy Biện - Nghệ Thuật Đánh Lừa Và Thao Túng

“The Foundation for Critical Thinking” (Quỹ Tư duy Phản biện) là một tổ chức học thuật, cung cấp nhiều “cẩm nang về tư duy khoa học được biên soạn chặt chẽ, chắt lọc, ngắn gọn và thiết thực, đúc kết nhiều thành tựu về phương pháp trên “mẫu số chung” là khuyến khích tư duy phân tích và phản biện, cùng với các kỹ năng nghe, nói đọc, viết, học tập và nghiên cứu một cách có thực chất, có chiều sau và dễ dàng áp dụng vào cuộc sống

Bộ sách Cẩm Nang Tư Duy dành cho mọi độc giả, từ học sinh, sinh viên đến các giảng viên, các nhà nghiên cứu, doanh nhân, người đã đi làm cũng như quý phụ muốn nâng cao năng lực tư duy của mình. Học sinh, sinh viên có thể đọc cẩm nang như tài liệu tham khảo để học tốt các bộ môn; quý phụ huynh có thể sử dụng cẩm nang để vừa nâng cao năng lực tư duy của mình vừa giúp con em mình phát triển các kỹ năng tư duy cần thiết để học tốt; các giảng viên, nhà nghiên cứu có thể sử dụng cẩm nang để xây dựng tốt các chủ đề của mình; ngươi đã đi làm, doanh nhâ có thể áp dụng các kỹ năng, ý tưởng của cẩm nang vào công việc và cuộc

cẩm nang tư duy phản biện - khái niệm và công cụ (tái bản 2023 )

cẩm nang tư duy phản biện - khái niệm và công cụ (tái bản 2023 )

Cẩm Nang Tư Duy Phản Biện - Khái Niệm Và Công Cụ

Quyển cẩm nang này tập trung vào bản chất của các khái niệm và công cụ “tư duy phản biện” được cô đọng thành một tập sách bỏ túi. Đối với bộ môn tư duy phản biện, cẩm nang trình bày một khái niệm được nhiều người chia sẻ về tư duy phản biện. Đối với sinh viên, cẩm nang là tài liệu tham khảo phụ trợ cho sách giáo khoa trong mọi môn học. Bộ môn tư duy phản biện có thể dùng cẩm nang để thiết kế bài giảng, chấm điểm và đưa ra các bài kiểm tra. Sinh viên có thể sử dụng cẩm nang để tăng tiến hiểu biết trong bất kỳ lĩnh vực nào.

Những kỹ năng chung của cẩm nang áp dụng được cho mọi chủ đề. Chẳng hạn, nhà tư duy phản biện sẽ nắm rõ ngay mục đích và vấn đề đang tranh cãi. Họ sẽ tra vấn thông tin, những kết luận và góc nhìn. Họ sẽ phấn đấu đạt đến sự chính xác, sự rõ ràng và tính liên quan. Họ sẽ tìm cách tư duy sâu hơn bề mặt bên ngoài, tư duy một cách lô gic và không thiên lệch. Họ sẽ áp dụng những kỹ năng này vào việc đọc, viết cũng như nghe và nói. Họ có thể áp dụng chúng vào các bộ môn như lịch sử, khoa học, toán học, triết học và các nghệ thuật; trong đời sống cá nhân cũng như trong cuộc sống nghề nghiệp.

Khi quyển cẩm nang này được sử dụng như một tài liệu tham khảo phụ trợ cho sách giáo khoa trong nhiều bộ môn, sinh viên sẽ bắt đầu nhìn ra được ích lợi của tư duy phản biện trong từng lĩnh vực học vấn. Và nếu giảng viên đưa ra được những ví dụ áp dụng môn học này vào đời sống hàng ngày, sinh viên sẽ bắt đầu nhận ra rằng giáo dục là một công cụ cải thiện chất lượng cuộc sống của họ.

Nếu bạn là sinh viên và đang sử dụng cẩm nang này hãy tập thói quen mang theo nó đến lớp. Hãy thường xuyên tham khảo nó để phân tích và tổng hợp những gì bạn học được. Hãy thấm nhuần sâu hơn những nguyên tắc mà bạn tìm thấy trong quyển cẩm nang này - cho đến khi việc sử dụng chúng trở thành bản năng thứ hai của bạn.

Nếu thành công, cẩm nang này sẽ đồng thời phục vụ cho bộ môn, sinh viên và chương trình giáo dục.

già ham sách - mơ giấc mơ chữ nghĩa

già ham sách - mơ giấc mơ chữ nghĩa

Già Ham Sách - Mơ Giấc Mơ Chữ Nghĩa

Mỗi nhà nghiên cứu trong Già ham sách dẫu có khác nhau về khuynh hướng và phương pháp nghiên cứu, nhưng đều có chung một tấm lòng với mảnh đất Nam Bộ. Có những nhà trí thức trước 1975 như GS. Nguyễn Khắc Dương, GS. Nguyễn Văn Trung, Nhà văn Nguyễn Khắc Phê; cũng có những nhà khoa học trưởng thành sau 1975 như: PGS. TS. Bùi Mạnh Nhị, PGS. TS. Nguyễn Thành Thi, PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân, PGS. TS. Nguyễn Công Lý, PGS. TS. Võ Văn Nhơn, PGS. TS. Nguyễn Hữu Hiếu, PGS. TS. Nguyễn Kim Châu, PGS. TS. Trần Lê Hoa Tranh, PGS. TS. Bùi Thanh Truyền, PGS. TS. Trần Hoài Anh, PGS. TS. Lê Quang Trường, TS. Phan Mạnh Hùng. Điểm chung của những nhà nghiên cứu là đều gắn bó với hoạt động nhỏ với hoạt giáo dục ở các trường đại học và vì vậy, việc nghiên cứu - giảng dạy không tách rời, góp phần tạo nên giá trị trang viết. Trần Bảo Định không chỉ làm rõ giá trị khoa học mà còn nhấn mạnh hình tượng nhà sư phạm ở các nhân vật trí thức này.

Giữa các nhà nghiên cứu và Trần Bảo Định có chung ý hướng tìm hiểu, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc ở Nam Bộ. Già ham sách ra đời từ sự cộng hưởng của tình yêu mễn văn hóa - văn học Nam Bộ nói riêng và giá trị thẩm mỹ văn chương nói chung. Qua tập sách, Trần Bảo Định thực sự mong mỏi có thể liên kết, tập hợp các nỗ lực bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống Nam Bộ để có thể tác động đến nhận thức và kêu gọi thế hệ trẻ tham gia vào công cuộc giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc hiện nay. Bởi ông hiểu rằng: Một cây làm chẳng nên non / Ba cây chụm lại nên hòn núi cao (Ca dao).

về quyển sự tích và nghệ thuật hát bộ của đoàn nồng (khảo-chú-luận)

về quyển sự tích và nghệ thuật hát bộ của đoàn nồng (khảo-chú-luận)

Về Quyển Sự Tích Và Nghệ Thuật Hát Bộ Của Đoàn Nồng (Khảo-Chú-Luận)

Về quyển Sự tích và Nghệ thuật hát bộ của Đoàn Nồng:

Ở đây, tác giả Đoàn Nồng mạnh dạn nêu lên ý kiến cá biệt của mình về tên gọi của loại hình Hát Bội - cái tên toàn thể người dân đều quen thuộc như vậy, ông còn mạnh dạn cho rằng: “Tên ‘Hát Bội’ mà bây giờ đã công dụng để thứ Hát Tuồng cổ của ta có lẽ nguyên là chữ ‘hát bộ’ mà ra”, giải thích: “Bộ nghĩa là bước đi, đi bộ; ‘hát bộ’ nghĩa là vừa hát vừa đi, và làm bộ tịch để biểu diễn cảm giác, cảm tình với câu hát”). Và một loạt lập luận khác của ông về tên gọi “Hát Bộ’’ ở ngay trong tác phẩm (được khảo chú ở phía sau đây), kể cả trong bài viết ông bàn dặm thêm trong bài Bàn về chữ “bội”) trên tạp chí Tri Tân số 163 (19-10-1944), trang 6-7, độc giả có thể đọc một cách thuận tiện trong chuyên khảo này.

“Sách chia ra ba chương: Chương thứ nhất nói về gốc tích và những cái hay cái khéo của nghề Hát Bội; chương thứ hai thuật qua những lớp tuồng thường dẫn; chương thứ ba sao lại những lớp tuồng hay xưa nay vẫn đem diễn thành một quyển sách vừa khảo cứu vừa trích diễm. Lời văn giản dị hoạt bát, thuần một giọng ta, không nhiễm lối văn Tây hoặc văn Tàu, Quốc ngữ mà được như thế đã là có công lắm.” (Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố)

nhật ký cô giáo - học kỳ thu

nhật ký cô giáo - học kỳ thu

Bộ ba tập Nhật ký cô giáo Học kỳ Xuân - Học kỳ Hè – Học kỳ Thu là ghi chép hàng ngày theo đúng nghĩa đen của từ này. Tập tản văn là một thực tiễn giáo dục, đơn thuần mô tả chân thực đời sống của nữ giảng viên làm công ăn lương ở một trường đại học trong thành phố Hồ Chí Minh. Giảng viên đại học cũng như bao nghề khác, có đầy rẫy thử thách làm cho cô giáo không ít lần lao đao, khóc lên khóc xuống để giữ thẻ màu giảng viên.

Vẫn giữ lối kể chuyện nhẹ nhàng hài hước, "Nhật ký cô giáo – Học kỳ Thu" có nhiều đối thoại nhẹ nhàng, mô tả nhân vật kĩ hơn hai tập trước. Trong Nhật ký Cô giáo – Học kỳ Thu vẫn là chân dung cô giáo đại học bận rộn bài vở nhưng đã thành thạo công việc hơn cô giáo ở hai học kỳ trước. Cô giáo qua mấy học kỳ đã biết chấp nhận học trò, bình tĩnh hơn trong đối thoại và xử lý dứt khoát 101 tình huống sư phạm chỉ khi thực chiến mới thấy. Cô vẫn tỉ mỉ khi quan sát xung quanh, mọi cuộc gặp gỡ trong trường hay ngoài trường dù ngắn ngủi một vài phút cũng đủ cho cô giáo học hỏi từ các tiền bối, hậu bối.

Cô giáo hiện lên là một nhân vật lạc quan, yêu nghề, tin người, có khả năng nhìn xấu thành đẹp, nhìn quen thành lạ. Cô giáo vẫn nhạy cảm với mọi thứ xảy ra quanh mình nhưng đã cứng rắn hơn trong cách xử lý. Nhờ đó những chuyện tưởng như bực mình trong học quán lại trở nên đáng yêu, mang đậm cảm xúc đặc thù của học quán thanh xuân này. Mỗi ngày cô đi làm đều có niềm vui. 

Tập Nhật ký Cô giáo – Học kỳ Thu hé lộ nội dung nhiều tiết học trong lớp của cô giáo, đề bài là gì, hoạt động của sinh viên, thể hiện quan điểm giáo dục thực tiễn của cô giáo: không chỉ hoàn thành công việc được giao mà còn hướng đến xây dựng con người hạnh phúc trong cuộc đời dài.

Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

Liên Hệ