truyện ngắn đương đại hàn quốc - tập 2

truyện ngắn đương đại hàn quốc - tập 2

Truyện Ngắn Đương Đại Hàn Quốc - Tập 2

Cuốn sách này đáng được lựa chọn với tư cách một tuyển tập tác phẩm tiêu biểu cho văn chương Hàn Quốc đương đại. Bởi vì trong văn chương đương đại Hàn Quốc, truyện ngắn là một thể loại mạnh, với sự nổi bật cũng như thành tựu quan trọng cả về số lượng lẫn chất lượng. Bởi vì tất cả 12 truyện ngắn trong này được tuyển chọn từ tạp chí Koreana, và chỉ riêng điều đó thôi đủ bảo chứng cho chúng. Koreana là tạp chí của quỹ Giao lưu quốc tế Hàn Quốc (Korea Foundation), xuất bản hàng quý, giới thiệu văn hóa nghệ thuật xứ Kimchi tới độc giả quốc tế.

“Vai trò của truyện ngắn trong lịch sử văn học hiện đại Hàn Quốc quan trọng hơn là một hiện tượng đáng chú ý. Tại Hàn Quốc, truyện ngắn thống lĩnh hơn so với tiểu thuyết và truyện vừa (…).” Trong khi giới xuất bản, phát hành Âu Mỹ khá nhất trí rằng khó kinh doanh phát đạt nhờ các tác phẩm best-seller nếu đầu tư vào truyện ngắn, “truyện ngắn rất khó bán” thì hàn quốc bao nhiêu năm qua luôn tập trung ưu tiên truyện ngắn, “đã chi hàng tỉ won dịch thuật các tuyển tập truyện ngắn giới thiệu ra nước ngoài”.

Ấn bản Koreana đầu tiên bằng tiếng Anh ra đời năm 1987, và sau hơn ba mươi năm, đến nay đã có các phiên bản tạp chí in, tạp chí điện tử và webzine Koreana trong 11 thứ tiếng (Anh, nhật, Trung quốc, Tây ban nha, Pháp, Arab, Đức, indonesia, nga, việt nam, hàn quốc). Koreana trở thành một trường hợp hiếm hoi trong các tạp chí quốc tế, với bạn đọc ở khắp 160 quốc gia. qua những bài viết chất lượng tốt, thông tin phong phú, những hình ảnh đẹp, hấp dẫn, Koreana góp phần quảng bá văn hóa nghệ thuật Hàn Quốc, thực hiện sứ mệnh của Korea Foundation: “Gắn bó nhân loại, kết nối thế giới” (CONNECT PEOPLE, BRIDGE THE WORLD). Từ năm 1993, Koreana bắt đầu đăng một truyện ngắn trong mỗi tạp chí. Qua hơn một phần tư thế kỷ, hơn 100 truyện ngắn đã được chọn như những đại sứ đưa văn chương Hàn Quốc đến toàn cầu. Sự quan tâm của công chúng nước ngoài đối với văn chương xứ sở Kimchi, có thể trong không ít trường hợp, bắt đầu từ niềm say mê làn sóng văn hóa đại chúng - qua phim truyện truyền hình (K-drama), âm nhạc (K-pop),truyện tranh (Manhwa), thời trang (K-fashion), ẩm thực (K-food)… Tuy nhiên, trên hành trình, văn chương đã chinh phục với sức hấp dẫn riêng biệt của mình, góp phần cân bằng cảm nhận của thế giới một hình tượng Hàn Quốc toàn vẹn hơn, tinh hoa, sâu lắng hơn.

Phiên bản Koreana tiếng việt đầu tiên ra mắt năm 2014. 12 truyện ngắn của tuyển tập này được chọn từ các tạp chí Koreana trong sáu năm qua. Các tác giả, chỉ đôi người bước vào tuổi tri thiên mệnh khi sáng tác tác phẩm mà chúng ta sắp đọc, còn lại phần lớn ở độ tuổi từ 23 đến 40. Tất cả đều từng giành được những giải thưởng văn học, trong đó, có nhiều giải thưởng danh giá bậc nhất xứ Hàn.

12 truyện ngắn bộc lộ nhiều phương diện hiện thực Hàn Quốc qua các mối quan hệ nhân sinh, đặc biệt là cách mà những người trẻ tuổi tiếp nhận và thích ứng với những thay đổi mạnh mẽ kinh tế, chính trị cũng như văn hóa, xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hậu công nghiệp hóa nhanh chóng, nén ép. Nhiều câu chuyện phản ánh những nét đặc thù cuộc sống xứ sở Kimchi (phong trào dân chủ Gwangju, phẫu thuật thẩm mỹ, cửa hàng tiện lợi…) đồng thời cũng khái quát các vấn đề có tính toàn cầu (tình trạng cô đơn, xa lạ cõi người trong xã hội ngày càng thực dụng, vị kỷ, ngạt thở vì định kiến; số phận cuộc đời cá nhân giữa đủ loại khủng hoảng, ly tán, xung đột, bão tố chiến tranh…).

12 truyện ngắn thể hiện phong phú các sắc điệu tâm hồn Hàn Quốc, tinh tế, nhạy cảm, nặng tình (Jeong, 정) và vấn vít hận sầu (han, 한), không nguôi tha thiết trăn trở về sinh tử, thiện ác, hạnh phúc cùng mất mát, những giá trị truyền thống và hiện đại.

12 truyện ngắn mở ra những thế giới nghệ thuật biến ảo, từ bút pháp hiện thực đến viễn tưởng, kinh dị; Cả giọng điệu trữ tình lãng mạn lẫn triết lý thâm trầm; Phần kết truyện thường mở, để lại những dư ba. Cùng với nhau, các tác phẩm có thể cho thấy năng lượng cùng sức trẻ của truyện ngắn đương đại Hàn Quốc kết tinh cả truyền thống ngàn năm văn chương dân tộc, đủ sức chạm đến những xúc cảm và suy tư lay động nhân tình bất cứ ở phương trời xa xôi nào.

toàn cầu hóa - hợp tác và đấu tranh

toàn cầu hóa - hợp tác và đấu tranh

Toàn Cầu Hóa - Hợp Tác Và Đấu Tranh

Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của sự phát triển xã hội 1 loài người.

Sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta toàn thắng mùa xuân năm 1975, trùng hợp với sự bắt đầu một thời kỳ “hoàng kim” mới của toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Nó diễn ra sầu rộng hơn và nhanh chóng hơn trước, nhờ sự tiến bộ ngoạn mục của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, truyền thông với hiện tượng internet. Nó bao gồm tất cả các mặt của đời sống chính trị - xã hội, kinh tế - tài chính - tiền tế, văn hóa - lối sống. Nó diễn ra như vũ bão làm cho người ta có cảm tưởng không gì có thể cưỡng lại được. | Nước Mỹ đóng vai trò vượt trội so với phần còn lại của thế giới chẳng những về kinh tế, tài chính, tiền tệ, mà cả về văn hóa, lối sống (way of life). Thế thượng phong của Mỹ trong toàn cầu hóa hiện nay nổi bật đến mức khó có thể phân biệt giữa hai khái niệm “toàn cầu hóa” và “Mỹ hóa”. - Đặc điểm nổi bật của quá trình toàn cầu hóa từ Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh quyết liệt để giành phần thắng về mình giữa các tác nhân, xung quanh một loạt vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, hòa bình và an ninh quốc tế trọng đại của thế giới; thiết thân đối với Việt Nam trong bối cảnh nước ta tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đồng thời đấu tranh quyết liệt để bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ từ biên giới đến hải đảo.

Các vấn đề đó là:

- Toàn cầu hóa qua các giai đoạn lịch sử, đòi hỏi cải tổ các định chế tài chính - tiền tệ quốc tế và Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc theo hướng dân chủ và minh bạch hơn; về khuynh hướng ly khai và hệ lụy; về hòa bình trong độc lập tự do, không phải hòa bình trong nô lệ.

- Về vấn đề Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc và tích cực tham gia các lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc; về Phong trào không liên kết từ chỗ coi tình hình miền Nam là nội chiến đến hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam.

- Vấn để đấu tranh bảo vệ chủ lãnh thổ từ biên cương đến hải đảo và thềm lục địa. Hoàng Sa và Trường Sa trước nay vẫn là của Việt Nam, phù hợp phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài PCA, bác bỏ mọi yêu sách phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Việc Cuba đổi mới đi đôi với bảo vệ chế độ chính trị của đất nước.

bộ bé học kỹ năng sống tự lập - tập 1: bé học chăm sóc nhà cửa (song ngữ việt - anh)

bộ bé học kỹ năng sống tự lập - tập 1: bé học chăm sóc nhà cửa (song ngữ việt - anh)

Bé Học Kỹ Năng Sống Tự Lập - Tập 1: Bé Học Chăm Sóc Nhà Cửa (Song Ngữ Việt - Anh)

Ba Mẹ và các con thương mến! Trẻ em ngày nay thường mất nhiều thời gian cho việc học tập hơn, vì thế nhiều ba mẹ thường làm thay cho con mọi việc với hy vọng con có nhiều thời gian để học. Điều này dẫn đến khả năng tự chăm sóc bản thân, khả năng giúp đỡ người khác, khả năng thích nghi với môi trường xung quanh và khả năng quản lý thời gian của con bị hạn chế.

Ba Mẹ và các con biết không, điểm số cao không phải là tất cả, mà khả năng tự lập mới chính là điều có thể giúp các con có được một cuộc đời thành công. Một em bé không được hướng dẫn cách tự chăm sóc bản thân và giúp đỡ người khác khi lớn lên sẽ rất thụ động và nhút nhát. Trong khi đó, những em bé được học những kỹ năng này sẽ trở thành những người lớn tự tin và biết chịu trách nhiệm với những việc mình làm. Những em bé biết tự chăm sóc bản thân và biết giúp ba mẹ làm việc nhà cũng sẽ có ý thức hơn trong học tập, vì con hiểu việc học cũng là việc của chính con.

Và khi con đã hình thành được ý thức tự học, kết quả học tập của con sẽ làm ba mẹ tự hào.

doanh nhân việt nam trong lịch sử

doanh nhân việt nam trong lịch sử

.. Trong những bước thăng trầm, dẫu thành công hay thất bại, doanh nhân Việt luôn để lại nhiều bài học cho hậu thế, cho hôm nay, để mỗi doanh nhân Việt Nam làm hành trang tiếp bước. Thực tế chứng minh rằng, doanh nhân Việt Nam đang ngày càng hội nhập mạnh mẽ và sâu sắc với thế giới, nhiều doanh nhân Việt Nam đã thực sự đóng vai trò to lớn trong việc kích thích nền sản xuất của đất nước. Và mới đây, tạp chí Forbes của Mỹ vừa công bố danh sách tỷ phú thế giới năm 2021, trong đó Việt Nam lần đầu tiên có 6 đại diện.

Cuốn sách này là một công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc của nhóm tác giả do PGS. TS. Trần Thuận chủ biên. Phần chính yếu trong tập sách này là kết quả nghiên cứu của một đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia (tương đương đề tài cấp Bộ) đã được nghiệm thu và đánh giá loại tốt về chất lượng khoa học.

Cuốn sách ngoài chương 1 có tính lý luận và chương 6 mang tính khái quát nêu bật những đặc điểm cơ bản của doanh nhân Việt Nam từ trước đến nay, 5 chương còn lại, mỗi chương đề cập đến doanh nhân Việt Nam trong mỗi thời đoạn lịch sử với tình hình cụ thể của đất nước, giúp người đọc nhận thức đầy đủ hơn tính chất và đặc điểm của doanh nhân nước nhà.

người lữ hành lặng lẽ

người lữ hành lặng lẽ

Người lữ hành lặng lẽlà một trong số ít tiểu thuyết ký sự thành công lớn, Tác phẩm được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và được nhiều độc giả yêu thích. Tác phẩm thể hiện sở trường của nhà văn Hữu Mai trong thể loại ký sự nhân vật lịch sử.

Cốt truyện được xây dựng dựa trên các nhân vật và sự kiện lịch sử, trung tâm là ông Lê Quang Đạo - một vị tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, trong mối liên hệ với nhiều nhân vật chính trị, quân sự, văn hóa lớn của Việt Nam đương thời. Người lữ hành lặng lẽ Lê Quang Đạo đã đi qua những năm tháng cuộc đời giản dị mà hào hùng, từ bước chân thơ ấu trên quê hương Đình Bảng ra không gian đất nước rộng lớn vận động cùng lịch sử dân tộc, trải dài từ thời Pháp thuộc, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, xuyên qua thời đoạn khó khăn, gian khổ của “đêm trước Đổi Mới” đến năm cuối cùng của thế kỷ ông sống. Không gian, thời gian và hệ thống nhân vật lịch sử đồ sộ kết nối trong các sự kiện có thật đã tạo nên tầm vóc lớn củaNgười lữ hành lặng lẽ- thiên ký sự về cuộc đời nhà cách mạng Lê Quang Đạo gắn với những biến chuyển t lớn và sâu sắc của Việt Nam thế kỷ XX. Ông hiện lên là vị tướng tài đức, dung dị, nồng hậu với cái Tâm, cái Tầm đi trước thời đại, trọn đời cống hiến cho đất nước, cho nhân dân. Ông là vị thủ trưởng - đồng đội - đồng chí rất mực gần gũi, thân thương và đáng kính; là người chồng - người cha hết lòng yêu thương gia đình.

Ông Lê Quang Đạo tên thật là Nguyễn Đức Nguyện (1921 - 1999), sinh ra trong một gia đình có nếp sống thanh tao, kỷ cương, hiếu học ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh văn hiến. Trong hơn 60 năm cống hiến, ông luôn có mặt nơi “đầu sóng ngọn gió”, hoàn thành xuất sắc mọi cương vị: Gần 10 năm Bí thư Hà Nội và nhiều tỉnh thành lớn; Gần 30 năm lãnh đạo công tác tư tưởng - văn hóa trong quân đội và Chính ủy nhiều chiến dịch lớn; Chủ tịch Quốc hội Khóa VIII (1987 - 1992) đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, mở rộng dân chủ, thông qua Hiến pháp 1992 và nhiều Bộ Luật, Luật quan trọng như Luật Đất đai (1987), Luật Đầu tư nước ngoài (1987), Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990), Luật Công ty (1990),... đánh dấu một bước chuyển mình căn bản về cơ chế thị trường; Khởi xướng và hoàn thành xây dựng Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1999), một căn cứ pháp lý quan trọng cho đại đoàn kết toàn dân tộc và phát huy quyền làm chủ của nhân dân...

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cố Chủ tịch Quốc hội, cố Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Lê Quang Đạo (1921 - 2021), Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh rất vinh dự được đồng hành cùng gia đình tác giả Hữu Mai và gia đình ông Lê Quang Đạo thực hiện cuốn sách Người lữ hành lặng lẽ. Tác phẩm hoàn thành như một nén tâm nhang để tưởng nhớ 100 năm đời người mà ông Lê Quang Đạo đóng góp tuổi xuân và trí tuệ, để lại cho đời tấm gương thầm lặng, nhưng mãi sáng trong tâm thức của chúng ta.Lần in tái bản này, trân trọng bút tích của tác giả tác phẩm, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xin giữ nguyên văn Lời cảm ơn của nhà văn Hữu Mai với Nhà xuất bản Quân đội nhân dân trong lần xuất bản đầu tiên năm 2005.

điệp viên không không thấy và đại văn mỗ

điệp viên không không thấy và đại văn mỗ

Tác giả Lê Văn Nghĩa sinh ngày 20/05/1953 tại tỉnh Chợ Lớn. Ông “thuộc thế hệ thanh niên học sinh Sài Gòn trưởng thành trong phong trào đấu tranh đô thị trước 1975. Ông từng xuống đường lãnh đạo thanh niên học sinh đấu tranh trực diện với cảnh sát, từng bị bắt, trải qua một số nhà tù giam của chế độ Việt Nam Cộng hòa, kể cả ở Côn Đảo. Sau ngày thống nhất đất nước, Lê Văn Nghĩa thuộc thế hệ làm báo đầu tiên của báo Tuổi Trẻ, cùng với làng báo TP.HCM lúc bấy giờ góp phần xây dựng đời sống mới. Ông làm việc tại báo Tuổi Trẻ từ năm 1975 đến năm 2015”.

“Người bán nụ cười” là cách mọi người gán cho nhà văn, nhà báo Lê Văn Nghĩa, bởi phong cách viết trào phúng của Ông đã định hình trong tâm trí bạn đọc Báo Tuổi Trẻ Cười với những cái tên nhân vật đạt độ điển hình: Hai Cù Nèo, Điệp viên Không Không Thấy, Đại Văn Mỗ, Hoa hậu phường Cây Mít, Linda Kiều…

34 mẩu chuyện trong tập “Điệp viên Không Không Thấy và Đại Văn Mỗ” cùng 36 mẩu chuyện trong tập “Điệp viên Không Không Thấy và nhà thơ Thần Giáng” đều mang dáng dấp các “thói hư tật xấu” của một ai đó trong cuộc đời này.

Nếu như ở “Điệp viên Không Không Thấy và Đại Văn Mỗ” - ta bật ngửa và phì cười vì những tình huống “phá án” trong “Đường dây phim sex”, “Nghiệp vụ ngửi mùi hương”, “Điệp vụ mò đường”, “Lộ tẩy”, “Nhà sưu tập tranh”…; thì đến “Điệp viên Không Không Thấy và nhà thơ Thần Giáng” - ngòi bút trào phúng và duyên dáng của Lê Văn Nghĩa cho người đọc thấy những màn “nhập đồng”, làm ra “thơ thần” chỉ toàn là trò lừa, chiêu đánh bóng bản thân qua “Ai là nhân tài?”, “Đấu giá chữ ký”, “Thần chú”, “Những người không thích đùa”, “‘Mê tốt’ mới”…

miền tây dung dị

miền tây dung dị

Quyển sách Miền Tây Dung Dị là tập hợp 27 bài phóng sự nhỏ như hai mươi bảy bức họa sống động, dựng nên không gian miền Tây sông nước với nhiều lớp cảnh khác nhau.

Đó có thể là những người níu giữ ngành nghề truyền thống dệt thổ cẩm Chăm, làm lồng đèn, làm chiếu cói hay gìn giữ những trang sách cổ đầy tri thức. Hoặc, những con người liên nối giữa thời chiến tranh và hiện tại bằng tình đồng đội của hai con người cùng tên Bảy. Có thể là những tấm gương người dân chân chất, tham gia thiện nguyện vì cộng đồng của ông Phước "luật sư", hay ông Huỳnh Khắc Nam người có số lần hiến máu cứu người cao kỷ lục của miền Tây 45 lần... Qua từng bài, độc giả sẽ dần nhận ra cảm xúc chung của những người con miền Tây sông nước, từ người Bí thư tỉnh ủy "thân dân" Lê Minh Hoan đến người dân bình thường nhất, đều hiện rõ sự tự hào về công cuộc đổi mới từng ngày của quê hương.

Xuất thân là nhà báo, từng bài viết của tác giả Dương Út thấm đẫm chất tin tức, với thông tin cuộn nối thông tin; nhưng cảm nhận sâu hơn, chúng ta có thể thấy ẩn sau đó là chất ký sự - tùy bút của văn chương chứ không còn đơn thuần là báo chí.

tess - một tâm hồn trong trắng

tess - một tâm hồn trong trắng

Tess - Một Tâm Hồn Trong Trắng là tác phẩm được độc giả thuộc mọi tầng lớp yêu thích nhiều nhất trong số 14 tiểu thuyết của Hardy. So với Eustacia xinh đẹp theo kiểu hoang dã, tham vọng vật chất trong Trở lại cố hương và Sue xinh đẹp trong theo kiểu trí thức, tính nết thất thường, với quan điểm mâu thuẫn về đạo đức, tôn giáo, hôn nhân trong Jude-Kẻ vô danh thì Tess Durbeyfield chỉ là một nàng thôn nữ, học hết lớp sáu trường làng, nàng xinh đẹp một cách dân dã như một đóa hoa đồng nội. Nhưng số phận thảm thương, Tess bị tử hình bằng cách treo cổ do đâm chết Alec. Số phận đen tối một cách cùng cực dù nàng chỉ có ước mơ rất tầm thường, nhỏ nhoi, rất con người: có một người chồng mà mình yêu và yêu mình, sống một cuộc sống vừa đủ, sẵn sàng làm bất cứ công việc chân tay vất vả nào. Nhưng Alec một điền chủ trẻ tuổi, phóng đãng quyến rũ và hãm hiếp từ năm nàng mới có mười sáu tuổi, sau đó lại dùng sức mạnh vật chất để chi phối nhằm mục đích sở hữu nàng như sở hữu một món đồ chơi ưa thích. Khi Tess kết hôn với Angel nàng đã thú nhận với chồng của mình về quá khứ vào đêm tân hôn. Do quan niệm quá cứng nhắc về trinh tiết và Angel nghĩ rằng mình bị lừa đã rời nước Anh đến Brazil lập nghiệp để suy nghĩ kĩ hơn về mối quan hệ vợ chồng anh.

Thông qua Tess - Một Tâm Hồn Trong Trắng, Thomas Hardy đã thẳng thắn phê phán những quan niệm cổ hủ và cứng nhắc về tín ngưỡng, đạo đức trong tình yêu và hôn nhân của thời kì Victorian. Chính vì lẽ đó mà khi nó được công bố lần đầu năm 1891 đã bị chỉ trích kịch liệt.

Khi đọc về những cuộc đời, những con người có tâm hồn mộc mạc, thiện lương, với những mơ ước đơn sơ bình dị lại gặp toàn tai ương, hoạn nạn, một mặt chúng ta xót thương, đồng cảm với họ, mặt khác, chúng ta mơ ước một xã hội trong đó những bi kịch đó không còn tái diễn. Có lẽ đó cũng là mơ ước hoài vọng của tác giả khi viết tác phẩm này.

mâu tử: lý hoặc luận

mâu tử: lý hoặc luận

Mâu Tử: Lý Hoặc Luận - Tiến sĩ Dương Ngọc Dũng (nghiên cứu và phiên dịch)

Mâu Tử (chữ Hán: 牟子) tên thật là Mâu Bác (牟博). Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì ông là một trong số ít người đầu tiên ở nước ngoài đến Giao Châu (vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay) tu học và khai truyền đạo Phật tại đây.

Trước tác nổi tiếng của Mâu Tử là cuốn Lý Hoặc Luận, viết bằng chữ Hán. Sách gồm 37 câu hỏi đáp giữa tác giả và những người theo Đạo Nho (chủ yếu) và Đạo Lão (số câu ít hơn, chỉ từ câu 29 trở đi).

"Tại Việt Nam người đầu tiên dịch trọn vẹn tác phẩm này là Lê Mạnh Thát. Là người tiên phong, ông khó tránh những sơ suất trong phiên dịch mà chúng tôi sẽ chỉ ra trong bản dịch này. Tại phương Tây, Paul Pelliot là người đầu tiên dịch trọn vẹn Lý hoặc luận sang tiếng Pháp, cũng như John Keenan dịch toàn bộ Lý hoặc luận sang tiếng Anh. Chúng tôi tham khảo một số bản dịch sang Trung văn (có sẵn trên mạng) nhưng hầu hết đều sai sót rất nhiều và không hề giải thích hay chú thích lý do tại sao lại dịch như vậy. Bản thân Mâu tử là người dùng nhiều từ cổ, cộng thêm hiện tượng sao chép nhiều lần, điều này gây khó khăn cho người dịch không ít, mặc dù ý nghĩa thì rất rõ ràng".

"Quan điểm của chúng tôi rất đơn giản và không "treo" vào quá nhiều sự kiện đòi hỏi được kiểm chứng. Nếu chấp nhận thời điểm sáng tác của Lý hoặc luận khoảng thế kỷ thứ 5 thì chẳng cần phải gắn nó với một truyền thống Phật giáo (như Pelliot và Lê Mạnh Thát) hay với một cuốn kinh (như Maspéro) vì vào thế kỷ thứ 5 tri thức Phật giáo chẳng còn xa lạ gì với Trung Quốc và mọi chi tiết liên quan đến Phật giáo trong tác phẩm Lý hoặc luận đòi hỏi phải được giải thích trên cơ sở phương pháp luận thông diễn tư tưởng Phật giáo của thời kỳ này, tức phương pháp "cách nghĩa" 格 義 mà Đạo An (314-385) và Huệ Viễn (334-416) là hai đại biểu nổi tiếng nhất". Đạo An là tăng sĩ Trung Quốc đầu tiên dùng "cách nghĩa" để giải thích tư tưởng Phật giáo. Huệ Viễn là người chủ trương "thần bất diệt luận" mà Mâu tử lập lại. Đây chính là phương pháp thuyên giải tư tưởng Phật Giáo của chính Mâu tử: dùng Nho giáo và Đạo giáo để giải thích Phật Giáo. Chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng Lý hoặc luận ra đời vào thời gian này (cuối thế kỷ thứ 4 và đầu thế kỷ thứ 5)".

Thông Tin TS. Dương ngọc Dũng

TS. Dương ngọc Dũng sinh năm 1956, hiện là giảng viên khoa Quan hệ Quốc tế, trường Đại học KHoa học Xã hội và Nhân văn - TP.HCM.

Ông tốt nghiệp cử nhân Anh văn năm 1980, tốt nghiệp đại học Canberra (Úc) năm 1989, chuyên ngành giảng dạy tiếng Anh (Graduate Diploma). Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Đông Á học tại Đại học Harvard (Mỹ) năm 1995, tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Tôn giáo học tại Đại học Boston (Mỹ) năm 2001, tốt nghiệp MBA của United Business Institute (Bỉ) năm 2007.

Ngoài ra, ông từng giữ những vị trí quản lý cao cấp, đào tạo và tư vấn cho những tổ chức lớn như Samsung, LG Vina, Tổng lãnh sự Mỹ, Úc, New Zealand, Bộ Kế hoạch & Đầu Tư, Bộ Tài chánh, Đài truyền hình Việt Nam, Tổng lãnh sự Singapore.

Vào năm 2016, TS. Dương Ngọc Dũng đã hướng dẫn Tổng thống Hoa Kỳ - Barack Obama thăm chùa Ngọc Hoàng.

Các tác phẩm đã xuất bản:

Kinh dịch và cấu hình tư tưởng Trung Quốc (NXB Khoa học Xã hội, 1999)

Triết giáo Đông Phương (NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, 2003)

Lịch sử văn minh và các triều đại Trung Quốc (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2004)

Bút kiếm Kim Dung (NXB Văn học, 2005)

Đường vào triết học (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2006)

Tôn giáo nhìn từ viễn cảnh xã hội học (NXB Hồng Đức, 2016)

tình yêu gia đình sự nghiệp

tình yêu gia đình sự nghiệp

Không phải là một tác phẩm văn học ăn khách đưa ra thị trường. Càng không phải là những trang viết dày dặn câu chữ, thấm đẫm hình tượng văn chương nghệ thuật để làm nên tên tuổi tác giả.

Cầm cuốn sách trên tay, có thể bạn đọc sẽ đọc những trang viết bình dị này bằng linh cảm. Linh cảm về một câu chuyện kể hình như không có trình tự thời gian, không có lối dẫn dắt hấp dẫn, không có sự sắp đặt hệ thống. Bằng lối tự truyện, nhà doanh nghiệp nữ Nguyễn Thị Sơn đã phác thảo một con đường đi đầy thăng trầm của chính cuộc đời mình. Một cuộc đời cũng như bao nhiêu cuộc đời khác sống trong bối cảnh đất nước đầy biến động của thế kỷ hai mươi. Và sức cuốn hút của cuốn sách chính là ở chỗ đó.

Gia dĩ đọc sách này lại thêm một lần tự ngẫm, hình như đâu đó trên đất nước nhỏ bé này, vẫn còn nhiều lắm những con người như thế, như cái cây có thể bị gãy cành qua gió táp mưa sa, có thể bị cuốn trôi theo dòng lũ, có thể lụi tàn... để rồi một ngày nào đó những chiếc lá lại xanh, những cành cây lại trỗi dậy vươn lên dưới bầu trời.

Tôi không biết chị là ai. Chỉ đọc cuốn sách này mà trong lòng thấy cảm động. Những gì mà người nữ doanh nhân này đã đóng góp cho đất nước, xin bạn đọc hãy tự suy ngẫm và chia sẻ.

Tôi chỉ xin chia sẻ với chị về chính tác phẩm này, bởi khi đọc xong tôi thấy cái nghiệp cầm bút giản dị của mình quả cũng thật vinh quang. Bởi vì nó giúp cho chúng ta, cho tôi và chị xích lại gần nhau hơn trong cái nhân gian CHÂN THIỆN MỸ.

Hà Nội ngày 22 tháng 2 năm 2006

Nhà văn Ma Văn Kháng

chứng cứ điện tử trong thực hiện pháp luật

chứng cứ điện tử trong thực hiện pháp luật

Chứng Cứ Điện Tử Trong Thực Hiện Pháp Luật

Dữ liệu điện tử được Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Luật Cạnh tranh năm 2018 xem là nguồn của chứng cứ. Luật Giao dịch điện tử năm 2023 đã giải thích hàng loạt các khái niệm có liên quan đến dữ liệu điện tử, quan trọng hơn, luật này quy định địa vị pháp lý dùng làm chứng cứ của các sản phẩm được tạo thành từ dữ liệu điện tử như: Giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, giá trị pháp lý của chứng thư điện tử, giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, chữ ký số, dấu thời gian, giao kết điện tử và hợp đồng điện tử; tạo điều kiện cho việc ra đời một loại chứng cứ mới có nguồn từ dữ liệu điện tử, mà ta gọi là chứng cứ điện tử.

Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật có liên quan đến chứng cứ điện tử còn gặp phải rất nhiều vấn đề khó khăn, trước mắt là về nhận thức, thu thập, đánh giá, chấp nhận và sử dụng chứng cứ điện tử. Cuốn sách này nhằm giải quyết một cách cơ bản nhất các vấn đề nhận thức chung về chứng cứ điện tử, thu thập, đánh giá, chấp nhân và sử dụng chứng cứ điện tử, trong điều kiện có liên hệ đến hệ thống pháp luật Việt Nam thực tiễn áp dụng. Cuốn sách này được viết mang tính tổng quan, với các vấn đề được giải quyết ở mức độ cơ bản nhất.

quá trình phi thực dân hóa và con đường đi lên xã hội hiện đại của các dân tộc á, phi và mĩ latinh thế kỉ xx - đầu thế kỉ xxi

quá trình phi thực dân hóa và con đường đi lên xã hội hiện đại của các dân tộc á, phi và mĩ latinh thế kỉ xx - đầu thế kỉ xxi

Quá Trình Phi Thực Dân Hóa Và Con Đường Đi Lên Xã Hội Hiện Đại Của Các Dân Tộc Á, Phi Và Mĩ Latinh Thế Kỉ XX - Đầu Thế Kỉ XXI

Sau các cuộc phát kiến địa lí là bắt đầu quá trình chủ nghĩa thực dân phương Tây tiến hành xâm chiếm các nước Á, Phi và Mĩ Latinh. Quá trình này được đẩy nhanh vào giai đoạn chủ nghĩa tự do cạnh tranh chuyển lên giai đoạn độc quyền. Ngay từ khi bị xâm lược, nhân dân Á, Phi và Mĩ Latinh đã đứng lên đấu tranh chống thực dân xâm lược và sau đó là tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Thế nhưng trước thế kỉ XX, thậm chí những thập niên đầu thế kỉ này, các cuộc vùng dậy đòi độc lập, về căn bản, đều không đi tới kết quả cuối cùng. Phải đến thế kỉ XX, đặc biệt từ năm 1945 trở đi, phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc bị áp bức ngày càng trở nên quyết liệt, nhân dân các nước Á, Phi và Mĩ Latinh lần lượt giành được nền độc lập của mình, trước hết là độc lập về chính trị. Đến cuối thế kỉ XX, các vùng đất thuộc địa của thực dân phương Tây đã bị xóa bỏ, nhân dân Á, Phi và Mĩ Latinh có được nền độc lập về chính trị, thực sự trở thành người làm chủ đất nước. Vì vậy, thế kỉ XX được coi là thế kỉ của phong trào giải phóng dân tộc. Sau khi có được nền độc lập, nhân dân Á, Phi và Mĩ Latinh bước vào thời kì phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội hiện đại để có được nền độc lập thực sự và trọn vẹn.

(GS. TS. NGND. Đỗ Thanh Bình)

tứ ân đạo phật ở tây nam bộ

tứ ân đạo phật ở tây nam bộ

Tứ Ân Đạo Phật Ở Tây Nam Bộ

Cuốn sách Tứ Ân Đạo Phật ở Tây Nam Bộ là một phần kết quả nghiên cứu từ đề tài cấp Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022 - 2024: "Phong trào các ông Đạo ở Nam Bộ từ thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 từ góc nhìn khu vực học" (mã số B2022-16-02) đã được thực hiện dưới sự chủ nhiệm của TS. Nguyễn Trung Hiếu, giảng viên Khoa Du lịch & Văn hóa - Nghệ thuật, Trường Đại học An Giang - ĐHQGTPHCM và nhóm nghiên cứu là giảng viên Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM.

Tứ Ân Đạo Phật ra đời năm 1947, được sáng lập dựa trên nền tảng tư tưởng giáo lý của Bửu Sơn Kỳ Hương (ra đời năm 1849) và tư tưởng Phật giáo. Trong lịch sử, tôn giáo này có nhiều đóng góp lớn trong việc khẩn hoang lập làng ở An Giang và Kiên Giang; đóng góp tích cực vào việc ổn định đời sống vật chất cho người dân Tây Nam Bộ ở giai đoạn lịch sử xã hội có nhiều biến động. Hiện nay, cộng đồng tín đồ Tứ Ân Đạo Phật tích cực tham gia các hoạt động từ thiện xã hội ở địa phương. Do vậy, nghiên cứu về Tứ Ân Đạo Phật sẽ làm nổi bật mối quan hệ giữa đời sống tôn giáo và đời sống xã hội của tín đồ trong suốt diễn trình ra đời và tồn tại đến ngày nay.

Đặt trong từng thời điểm lịch sử - giai đoạn Tứ Ân Đạo Phật ra đời hay giai đoạn hiện nay, Tứ Ân Đạo Phật là nguồn lực tinh thần khỏa lấp khoảng trống trong tâm thức con người, hình thành nên giá trị văn hóa mới ở vùng đất Tây Nam Bộ. Đó là giá trị thụ dung đa tầng văn hóa tồn tại ở vùng đất Tây Nam Bộ vào một tôn giáo, làm cho tôn giáo cộng sinh hài hòa với các tôn giáo khác; khác biệt và độc đáo so với các tôn giáo nội sinh trước đó mà Tứ Ân Đạo Phật ảnh hưởng. Đó còn là giá trị tư tưởng đạo đức tôn giáo mà tín đồ đóng góp cho xã hội từ khi ra đời đến nay. Từ đó cho thấy Tứ Ân Đạo Phật tạo nên một hệ giá trị văn hóa trong bức tranh đa dân tộc và tôn giáo vùng Tây Nam Bộ.

Chuyên khảo này đề cập những nội dung chính như sau:

Chương 1: Lý luận về tôn giáo, giáo phái mới và hoàn cảnh ra đời của Tứ Ân Đạo Phật.

Chương 2: Lịch sử hình thành, phát triển và hệ thống tổ chức hoạt động của Tứ Ân Đạo Phật.

Chương 3: Phương thức tu hành và tư tưởng giáo lý của Tứ Ân Đạo Phật.

Chương 4: Đặc trưng thờ phụng của Tứ Ân Đạo Phật.

Chương 5: Hệ thống nghi lễ và lễ cúng của Tứ Ân Đạo Phật.

Chương 6: Ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống tinh thần và đời sống vật chất của tín đồ.

Chương 7: Ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống xã hội, và dự báo về hoạt động của cộng đồng tín đồ Tứ Ân Đạo Phật trong tương lai.

hệ giá trị việt nam từ truyền thống đến hiện đại (tái bản 2024)

hệ giá trị việt nam từ truyền thống đến hiện đại (tái bản 2024)

Hệ Giá Trị Việt Nam Từ Truyền Thống Đến Hiện Đại

Giải pháp duy nhất không thể trốn tránh là phải sớm xây dựng văn hóa để phát triển dựa trên nền tảng của một hệ giá trị Việt Nam mới.

Việc xây dựng hệ giá trị Việt Nam mới đòi hỏi không phải là nhắc lại một số phẩm chất tưởng như là giá trị truyền thống điển hình (như yêu nước, cần cù, sáng tạ) mà là cần phải tập trung vào gây dựng và phát triển những giá trị mà xã hội và con người Việt Nam còn thiếu (như Pháp quyền, Trung thực, Bản lĩnh, Hợp tác, Tĩnh khoa học), hoặc có ở mức rất thấp (như Dân chủ, Trách nhiệm), hoặc có nhưng cần điều chỉnh nội hàm (như Yêu nước không chỉ thể hiện trong chiến tranh chống ngoại xâm, mà quan trọng là thể hiện trong xây dựng hòa bình, giữ gìn quốc thể; Sáng tạo không chỉ là linh hoạt biến báo, mà còn phải nâng lên tấm sáng tạo phát minh; Nhân ái không chỉ là yêu quý những người quen biết mà phải chống bệnh vô cảm, yêu quý cả những người không quen biết), hoặc có nhưng đang có nguy cơ mai một (như Nhân ái).

Có thể khẳng định rằng chừng nào mỗi người dân và mỗi cộng đồng người Việt Nam còn chưa đủ trung thực và bản lĩnh nhìn thẳng vào những tật xấu của mình để khắc phục, mà vẫn còn ưa nịnh, thích được khen, chạy theo lợi ích cá nhân, cục bộ mà lừa đối nhau và tự dối mình thì mãi mãi vẫn chỉ là một dân tộc chưa trưởng thành, dù có tự hào về “lịch sử hàng nghìn năm".

binh pháp gia truyền thư

binh pháp gia truyền thư

Binh Pháp Gia Truyền Thư

"Nước phản chiếu bóng trăng, gương in hình bóng người. Sự vật đều được chiếu bóng ở trong nhân tâm, giống như ánh trăng được chiếu bóng vào trong nước, là sự phản ánh của khoảnh khắc. Vị trí của kiếm thân diệu phảng phất như là mặt nước, còn tâm của ngươi có thể so với ánh trăng. Vị trí của kiếm thần diệu có thể được phản bóng ở trong tâm. Tâm động, hình động; hình theo tâm mà động". - Yagyū Munenori

Binh pháp gia truyền thư của Yagyū Munenori là cuốn sách kinh điển về nghệ thuật chiến đấu của người Nhật Bản. Không chỉ đơn thuần bàn về kỹ thuật chiến đấu tay đôi giữa kiếm sĩ mà cuốn sách còn đề cập nhiều khía cạnh khác trong khi tác chiến như chiến thuật, chiến lược, tâm lý, và đạo đức. Thậm chí người đời nay còn học được từ đó nhiều bài học hữu ích, đó là sự tập trung và kiên trì trong rèn luyện; là việc tìm hiểu và ứng biến trước mọi biến cố đối thủ có thể đưa đến; là đạo đức và tinh thần của chiến binh thực thụ; là năng lực kiểm soát cảm xúc và tâm lý trong quá trình tham chiến; là kỹ năng giải quyết vấn đề khi gặp trường hợp bất trắc; và hơn hết là hiểu và tôn trọng chính mình lẫn đối thủ.

Yagyū Munenori (1571-1646) là kiếm sĩ nổi tiếng Nhật Bản. Sinh ra trong gia tộc được nhiều người gọi là gia tộc tình báo hoạt động ngầm trong các hoạt động gián điệp, nên ông được học kiếm thuật từ nhỏ. Ông là người sáng lập phái Shinkage, cũng là thầy dạy binh pháp, quân sự cho tướng quân Tokugawa Iemitsu. Sau đó ông trở thành daimyo, và lãnh chúa đầu tiên của vùng Yamoto Yagyu. Ông qua đời vì bệnh tật tại Azabu, Edo.

Munenori có rất nhiều đệ tử đảm nhiệm nhiều chức trách khác nhau, từ tướng quân cho đến các daimyo. Munenori coi kiếm cứu người là lý tưởng của binh pháp, ngay từ đầu không sử dụng vũ lực thì tốt hơn, nhưng nếu phải sử dụng vũ khí để loại bỏ một người mà cứu được cho cả vạn người thì cũng đáng.

khí chất nam bộ qua truyện sơn nam

khí chất nam bộ qua truyện sơn nam

Khí Chất Nam Bộ Qua Truyện Sơn Nam

"Để thực hiện đề tài này, ngoài kiến thức Lý luận Văn học và Văn học sử, tác giả còn phải tự bồi dưỡng cho mình kiến thức về Văn hóa học đại cương và Văn hóa vùng Nam bộ. Trong quá trình này, tác giả đã rất chủ động và tích cực, đảm bảo các yêu cầu đặt ra về mặt nội dung và phương pháp. Tác giả đã bao quát một khối lượng tư liệu khá lớn, đặc biệt là các tác phẩm truyện ngắn, truyện dài vốn rất phong phú của Sơn Nam. Chị đã trực tiếp gặp gỡ và tìm hiểu nhà văn và nhiều người cùng thời am hiểu sáng tác của ông để bổ sung vào kho tư liệu về Sơn Nam."

(trích lời nhận xét của GS. TS. Huỳnh Như Phương)

"Thế ứng xử của con người phương Nam trước tự nhiên và trong xã hội biểu hiện từng lúc khác nhau, nhưng cái hồn Việt Nam luôn nhất quán đằng sau những câu chuyện Sơn Nam kể lại, minh chứng cho dòng chảy văn hóa Việt Nam vẫn xuôi về biển lớn của một nền văn minh lớn trên thế giới, dẫu có phải vượt qua thác ghềnh lịch sử. Văn hóa đặc trưng Nam bộ mang một sắc màu đặc biệt trên bức tranh tổng thể văn hóa Việt, là khúc biến tấu ngọt ngào trong bản nhạc văn hóa Việt Nam được viết từ buổi bình minh lịch sử." (trích Chương 2)

bác hồ với công tác văn phòng, văn thư và lưu trữ

bác hồ với công tác văn phòng, văn thư và lưu trữ

Bác Hồ Với Công Tác Văn Phòng, Văn Thư Và Lưu Trữ

Cuốn sách này gồm 2 phần:

Phần thứ nhất, từ những chỉ dẫn trong nhiều bài viết của Bác Hồ, được tác giả lựa chọn một cách kỹ lưỡng và lần lượt phân tích, làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của công tác văn phòng, văn thư, lưu trữ mà những người được phân công làm công việc này trong các cơ quan Đảng, Nhà nước cũng như các doanh nghiệp đều cần nắm vững.

Phần thứ hai là tập hợp một số bài viết của Bác Hồ có liên quan đến công tác văn phòng, văn thư và lưu trữ như: óc tổ chức công việc trong hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp, về chống thói ba hoa, bệnh quan liêu, nạn giấy tờ, về cần kiệm liêm chính… Bác Hồ nói những điều đó trong nhiều hoàn cảnh lịch sử khác nhau nhưng đến tận ngày nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự, nhất là khi công cuộc cải cách nền hành chính ở nước ta đang được đẩy mạnh để làm cho hoạt động quản lý nhà nước hiệu quả hơn. Bằng cách dẫn ra những lời nhắc nhở của Bác Hồ và những thành tựu nghiên cứu của nhiều nhà khoa học về công việc văn phòng, tác giả đã giúp người đọc hiểu một cách đầy đủ hơn về những công việc thầm lặng, nhưng rất có ý nghĩa thuộc lĩnh vực văn phòng, văn thư và lưu trữ.

Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

Liên Hệ