ngày lành tháng tốt năm canh tý 2020

ngày lành tháng tốt năm canh tý 2020

Tập sách “ Tìm hiểu văn hóa phương Đông – Ngày lành tháng tốt năm Canh Tý – 2020” quý độc giả đang cầm trên tay là một tập hợp mà chúng tôi sưu tầm, đối chiếu và chọn lọc trong nhiều năm qua. Chúng tôi được dạy rằng phải biết chọn một lịch pháp ( cách làm lịch, tức an sao) đúng thì phần luận giải sau đó mới đúng được. Để làm được việc nay, chúng tôi dựa trên các tài liệu sau:

- Những bài dịch giải, luận giải, khảo đính của cụ Nguyễn Minh Triết ( 1920-2000):

- Sách Bách Sự Nhật Dụng của HT. Thích Hoàn Quan ( 1928 – 2005)

- Sách Bàn về Lịch Vạn Niên của cụ Tân Việt – Thiều Phong;

- Ngọc Hạp thông thư triều Nguyễn ;

- Hiệp kỷ biện phương thư;

- Bảng số liệu tra cứu về Ngày giờ, Sóc, Trung Khí, tiết Khí sử dụng các lý thuyết thiên văn hiện đại VSOP-87/ELP-200 theo giờ GMT của Hải quân Hoa Kỳ;

- Và một số sách khác về trạch nhật được xuất bản trước năm 1975.

- Về giờ Hoàng Đạo (giờ tốt) và giờ xấu ( Thọ Tử, Sát Chủ, Hắc Đạo) chúng tôi đã tính sẵn và kê đủ 12 giờ tốt xấu từng ngày để quý vị tiện dụng mà không cần phải tra cứu. Chúng tôi cũng áp dụng Định Luật Hòa Trực theo lời dẫn của cụ Minh Triết để sự luận giải them phần chính xác.

- Phần luận giải nên và cữ cho mỗi ngày chúng tôi dựa theo phần căn bản của tài liều nêu trên nhưng luôn luôn chú ý phần ngoại lệ khi gặp các hung tinh ( như Phục Đoạn, Trường Đoản Tinh, Thủy Ngấn, Diệt Một, Tử Khí, Đao chiêm Sát…) để ghi lại những việc nên và không nên trong ngày giúp quý vị tiện sử dụng mà không cần phải tra cứu.

- Tuy cố gắng tối đa nhưng chắc không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi kính mong các bậc cao minh chỉ giáo cho.

bộ từ điển thiền tông tân biên - tập 2

bộ từ điển thiền tông tân biên - tập 2

Thiền tông - căn cứ vào lịch sử hình thành và phát triển, với rất nhiều truyền thuyêt sinh động và thiền ngữ kỳ dị tuyệt vời, cộng với sự ảnh hưởng dài lâu sâu sắc đến nền văn hóa Đông phương , cùng sự xâm nhập không ngừng của nó vào nền văn hóa Tây phương hiện nay, đã tạo thành thế giới Thiền sâu xa và rộng mở.

Trong thế giới thiền ấy, có lúc như hoa đỏ liễu xanh (hoa hồng liễu lục), mắt ngang mũi dọc (Tỵ thụ nhãn hoành) rất phổ thông, rất bình thường, đôi khi như giọt tuyết trên lò lửa (Hồng lô thượng nhất điểm tuyết) thật đắc biệt, thật lạ lùng khiến mọi người vừa sợ vừa ngờ. Thiền quả là cao xa khó nắm bắt, nhưng lại gần gũi giản dị, vừa bình thường thực tế vừa siêu hình thần bí, không thể nghĩ bàn, đầy ấp những câu đố khó hiểu. Song càng khó hiểu càng gợi cho người đọc, người nghe bao niềm say mê, bao nỗi thắc mắc…

Quyển sách này được hình thành trên nền tảng Thiền Tông Đại Từ Điển do nhóm Viên Tân thực hiện, NXB Sùng Văn xuất bản năm 2010. Sở dĩ mang tên Từ điển Thiền Tông Tân Biên vì nội dung của nó được chung tôi soạn dịch bao gồm các mục từ tác phẩm, thuật ngữ, nhất là về phần địa danh, phụ lục không chỉ của Trung hoa mà còn của Ấn Độ, Việt Nam, Nhật Bản, Cao Ly được chỉnh sửa, bổ sung hình ảnh minh họa hết sức phong phú. Do tính đặc biệt của thuật ngữ Thiền tong trong các tác phẩm chữ Hán về Thiền học, một thuật ngữ thiền đôi khi có đến hai nghĩa trái ngược nhau tùy ngữ cảnh, và khi tra cứu trong các từ điển Hán Việt thông thường thì không có.Cũng nhằm đáp ứng nhu cầu tìm học, phiên dịch các văn bản thiền tứ Hán ngữ sang Việt ngữ của khá nhiều người nên sách này ra đời.

Nay việc phiên dịch bổ sung và hiệu đính đã hoàn tất, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu quyển sách này đến quý độc giả gần xa. Nhân đây, chúng tôi xin chân thành cảm ơn Thượng tọa Kiến Nguyệt, Đại đức Chơn Không Khai Chánh, Ni Sư Hạnh Huệ , Sư cô Đinh Quang, Tiến sĩ Đỗ Quốc Bảo, quý Phật tử Khai Thành, Tín Thiện, Vũ Hương và Diệu Phụng đã hết long giúp đỡ để hoàn thành tập sách , đồng thời cũng vô cùng tri ơn các tác giả có sách trong thư mục tham khảo. Bởi điều kiện biên dịch và khả năng của dịch giả còn có hạn, Từ Điển Thiền Tông Tân Biên khó tránh khỏi những sơ suất. Với lòng biết ơn sâu sắc, chúng tôi mong muốn quý độc giả cao minh chỉ giáo để sách này trong lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn.

tìm hiểu văn hóa phương đông - ngày lành tháng tốt năm kỷ hợi 2019

tìm hiểu văn hóa phương đông - ngày lành tháng tốt năm kỷ hợi 2019

Tập sách “Tìm hiểu văn hóa phương Đông – Ngày lành tháng tốt năm Kỷ Hợi 2019” quý độc giả đang cầm trên tay là một tập hợp mà chúng tôi sưu tầm, đối chiếu và chọn lọc trong nhiều năm qua. Chúng tôi được dạy rằng phải biết chọn một lịch pháp (cách làm lịch, tức an sao) đúng thì phần luận giải sau đó mới đúng được. Để làm được việc này, chúng tôi dựa trên các tài liệu sau:

-       Những bài dịch giải, luận giải, khải đính của cụ Nguyễn Minh Triết (1920 – 2000);

-       Sách Bách Sự Nhật Dụng của HT. Thích Hoàn Quan (1928 – 2005);

-       Sách Bàn về Lịch Vạn Niên của cụ Tân Việt – Thiều Phong;

-       Ngọc Hạp thông thư triều Nguyễn;

-       Hiệp kỷ biện phương thư;

-       Bảng số liệu tra cứu về Ngày giờ, Sóc Trung Khí, Kiết Khí sử dụng các lý thuyết thiên văn hiện đại VSOP-87/ELP-200 theo giờ GMT của Hải quân Hoa Kỳ;

-       Và một số sách khác về trạch nhật được xuất bản trước năm 1975.

Về giờ Hoàng Đạo (giờ tốt) và giờ xấu (Thọ Tử, Sát Chủ, Hắc Đạo) chúng tôi đã tính sẵn và kê đủ 12 giờ tốt xấu từng ngày để quý vị tiện dụng mà không cần phải tra cứu. Chúng tôi cũng áp dụng Định Luật Hòa Trực theo lời chỉ dẫn của cụ Minh Triết để sự luận giải them phần chính xác.

Phần luận giải nên và cữ cho mỗi ngày chúng tôi dựa theo phần căn bản của các tài liệu nêu trên nhưng luôn luôn chú ý phần ngoại lệ khi gặp các hung tinh (như Phục Đoạn, Trường Đoản Tinh, Thủy Ngấn, Diệt Một, Tử Khí, Đao Chiêm Sát…) để ghi lại những việc nên và không nên trong ngày giúp quý vị tiện sử dụng mà không cần phải tra cứu.

Tuy cố gắng tối đa nhưng chắc không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi kính mong các bậc cao minh chỉ giáo cho.

Xin chân thành cảm ơn.

Nhóm biên soạn Quang Bình

phật pháp ứng dụng

phật pháp ứng dụng

 Chuyên mục Phật pháp ứng dụng được hình thành nhằm đáp ứng nhiều thắc mắc từ độc giả gửi về cho chúng tôi, các bài đăng trong Chuyên mục Phật pháp đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo độc giả, ngay cả những người trước đó không nêu thắc mắc cũng vẫn học hỏi được nhiều khi đọc qua những phân tích trả lời của chúng tôi. Từ thực tế này, chúng tôi quyết định chính thức xuất bản một số các bài đã đăng nhằm phục vụ việc lưu hành rộng rãi hơn.

Ngoài ra, chúng tôi cũng chọn đưa vào đây hai bài phản biện đã từng đăng rộng rãi trên nhiều trang mạng Phật giáo, vì nội dung các bài này đề cập và phân tích nhiều vấn đề tiếp cận, học tập Kinh điển của người Phật tử. Nội dung các phản biện này nêu lên và bác bỏ các khuynh hướng sai lầm trong khi đọc hiểu Kinh điển và đặt niềm tin, vì thế nên có giá trị cũng cố niềm tin chân chánh cho bất kỳ người Phật tử nào.

Nhìn theo một khía cạnh khác, chính những dữ kiện có thật trong bài tranh biện này sẽ giúp độc giả thấy được một các sinh động những khuynh hướng sai lầm cần tránh, bởi chúng hoàn toàn có thật và đã nảy sinh trong thực tế chứ không phải do tưởng tượng chủ quan của người viết.

Hy vọng việc xuất bản sách này sẽ mang đến thêm một phương tiện học hỏi Giáo pháp cho nhiều người. Đó chính là niềm vui và kỳ vọng của những người thực hiện.

sổ tay người cư sĩ

sổ tay người cư sĩ

Vào một buổi chiều, cư sĩ Minh Huệ từ Thành Phố Cần Thơ về Tổ đình Phước Hậu trao cho tôi bản thảo quyển "Sổ tay người Cư sĩ", nhờ viết vài lời đầu sách.

Xét thấy từ ngàn xưa cho đến nay, thời nào cũng có cư sĩ hoằng dương Phật pháp, làm cho đạo giải thoát ngày càng lan rộng khắp mợi nơi như :

     - Thời Phật còn tại thế ở Ấn Độ có cư sĩ Duy - ma - cật, phu nhân Thắng Man, hoàng hậu Mạt-lợi, ... giảng pháp cho người nghe, được Phật ấn chứng.

     - Ở Trung Quốc có cư sĩ Chi Khiêm dịch kinh Phạn-Hán ở nước Ngô, thời Tam Quốc có cư sĩ Đinh Phúc Bảo biên soạn Phạt học đại tự điển, cư sĩ Lý Bính Nam là thầy dạy Pháp sư Tịnh Không ...

     - Ở Việt Nam ta cũng có cư sĩ thiền sư Pháp Loa, cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám dịch kinh Thủ Lăng-nghieemvaf là thầy dạy Phật pháp cho Hòa thượng Thiện Hoa, Thiện Siêu, Trí Tịnh ..., cư sĩ Mai Thọ Truyền soạn Pháp Hoa Huyền Nghĩa ...

Những vị cư sĩ vừa nêu trên, toàn là những người uyên thâm Phật lý, truyền bá giáo pháp Phật-đà một thời rạng rỡ.

Nay cư sĩ Minh Huệ là một trong những vị Phật tử thuần thành, để tâm nghiên cứu kinh sách, nghe băng quý thầy giảng và thường đến chùa học hỏi với quý thầy rất nhiều năm, nên huynh có một kiến thức cơ bản về Phật pháp. Huynh này rất có lòng vì Phật phsp nên cần cù sưu tập viết nên quyển Sổ tay người cư sĩ nhằm đem lại lợi lạc cho mọi người.

Nhận thấy tập sách nhỏ bé này đóng góp những điều cơ bản thiết thực cho quý Phật tử mới vào đạo hay những Phật tử nào quy y Tam bảo đã lâu mà ít có thời gian rảnh rỗi đọc nhiều kinh sách.

Sau khi đọc qua quyển sách, tôi tùy hỷ công đức này, viết vài lời đầu sách để giới thiệu đến quý Phật tử gần xa có duyên gặp được tập sách này.

bộ sổ tay học phật (tập 1)

bộ sổ tay học phật (tập 1)

SỔ TAY HỌC PHẬT - TẬP 1

1. Tổ Thế Thân tu tập 12 năm hướng về Phật Di Lặc mà không thấy được kim thân của Phật Di Lặc. Ngài chán nản bỏ động tu, đi ra ngoài. Khi nhìn thấy một con chó ghẻ nằm bên đường, ngài khởi từ tâm, định dùng lưỡi liếm những vết lở loét, giòi bọ của nó để chữa trị, thì con chó bỗng biến mất và kim thân Phật Di Lặc hiện ra rực rỡ.

(Luận văn Tiến sĩ, nghiên cứu về Đại Sư  Thế Thân của Lê Mạnh Thát,
bảo vệ tại Hoa Kỳ)

2. Một người nữ nếu có đọc một bài kệ kinh Đại Bửu Tích thì kiếp sau sẽ không làm người nữ nữa. Bửu Tràng Đà la ni có năng lực chuyển nữ thành nam.

3. Khi thành đệ tử Phật, Xá Lợi Phất 2 tuần sau chứng quả A La Hán, Mục Kiền Liên thì sau một tuần.

4. Ngài Ni Đề sau khi xuất gia, tu 4 tháng chứng A La Hán. Phật nói ông từng là Tam Tạng Pháp sư thời Phật Ca Diếp. Ông có một đệ tử chứng quả Tu Đà Hoàn mà ông không hay biết. Một hôm ông bệnh, nhờ đệ tử đổ phân, quả báo ông phải gánh chịu là 500 đời phải hốt phân.

5. Một ngày nọ vua Ba Tư Nặc thỉnh Phật và chư tăng vào cung thọ trai. Trong đó có một vị tỳ kheo hơi thở có mùi thơm của hoa sen bát ngát. Vua nghi ngờ ông dùng ma thuật để quyến rũ cung nữ, nên kêu ông đi súc miệng, nhưng càng súc càng thơm. Vua thắc mắc, Phật bảo thời quá khứ vị tỳ kheo này thường tán thán công hạnh chư Phật, nên có phước báo như thế.

6. Ông Lâm ở Đài Loan phóng sanh một con rùa lớn. Ông bỏ ra rất nhiều tiền để mua nó và có khắc tên ông vì sợ người ta bắt ăn thịt. Mười sáu năm sau, con trai ông bị rơi xuống biển, sống sót nhờ con rùa ấy đưa vào bờ.

7. Kiếp trước, thiền sư Ô Sào và Bạch Cư Dị là hai người bạn đồng tu. Bạch Cư Dị hỏi:

- Nhà anh giàu không?
Ô Sào trả lời:
- Cha tôi giàu lắm, tiền không biết làm gì cho hết. Tôi thấy vậy chán quá nên đi tu.
Ô Sào hỏi lại:
- Nhà anh giàu không?
Bạch Cư Dị nói:
- Nhà tôi nghèo lắm, thiếu thốn mọi thứ nên tôi chán quá tôi đi tu. Mong sao kiếp sau tôi làm một ông quan thật giàu.
Chính tâm nguyện đó mà Ô Sào phải đầu thai theo bạn để chuyển mê khai ngộ. 
Kiếp lai sinh, quả thật Bạch Cư Dị là một Quan Thị lang, một ông quan có tâm hồn thi sĩ, bạn với thơ và rượu, và ông có nhân duyên gặp lại ngài Ô Sào. Ông hỏi thiền sư, đại ý Phật Pháp là gì. Ô Sào trả lời:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Quan Thị lang nói, điều đó con nít lên 3 cũng biết. Ô Sào tiếp lời, nhưng ông già 80 làm không được.
Hai người bạn, một tăng một tục, cũng là trường hợp của Tô Đông Pha và thiền sư Phật Ấn. Họ cũng có nhân duyên làm bạn bè nhiều kiếp, Và Phật Ấn cũng muốn thức tỉnh Tô Đông Pha, mong Hàn Lâm học sĩ đừng dấn bước quá sâu vào mê lộ.
Phật Ấn biết Tô có 7 người thiếp nên một hôm hỏi… mượn một. Tô Đông Pha cả cười đồng ý, sai người thiếp thứ 7 đến, dặn rằng:
- Nàng cứ đến xem hòa thượng xử sự ra sao.

Đêm đó hòa thượng sắp xếp một phòng cho cô nghỉ. Cô đinh ninh hòa thượng sẽ đến phòng mình nhưng chờ hoài không thấy, cô tò mò hé cửa xem hòa thượng đang làm gì bên ngoài, thì thấy ngài cho đốt 7 chiếc lò đỏ rực, suốt đêm bước qua bước lại 7 cái lò ấy. Sáng hôm sau cô trở về thuật lại chuyện đêm qua cho Tô Đông Pha nghe. Ông này lập tức hiểu điều ngài muốn nhắn gởi. Có 7 người thiếp như có 7 lò than hồng, người tu hành thì đã bước qua ái dục.

8. Do có “tuệ phân tích” mà có thể nói về một đề tài nói hoài không hết. Có vị tuy đã chứng A La Hán mà không có “tuệ phân tích” này.

9. Một bầy khỉ nhìn thấy Chư Tăng đảnh lễ Xá lợi Tóc và Răng của Đức Phật, khi Chư Tăng đi rồi, chúng cũng ra lạy. Kết quả là bầy khỉ được sanh thiên, 500 con khỉ sanh về Đao Lợi Thiên.

10. Trong truyện “Hạt đậu biết nhảy”, một bà mẹ dặn con trai khi sang Ấn Độ buôn bán nhớ mua về cho bà một hạt Xá lợi Phật. Nhưng anh này lần nào cũng quên. Dù bà đã tha thiết dặn đi dặn lại, nhưng anh vẫn quên. Đến khi sực nhớ, anh ta lượm một cái răng chó đem về nói dối với mẹ là Xá lợi Phật. Bà mừng rỡ, cung kính tôn trí và hằng ngày đảnh lễ. Cho tới một ngày, hạt Xá lợi giả đó cũng tỏa hào quang.

11. Tụng một đoạn kinh Pháp Cú cho đứa trẻ khóc đêm nghe:

Nếu ai biết Pháp Cú
Tự mình hộ trì giới
Xa lìa sự sát sanh
Nói thật, không nói dối
Tự bỏ điều phi nghĩa
Giải thoát đường quỷ thần.

dấu hiệu trường thọ trong lý thuyết tứ trụ tử bình

dấu hiệu trường thọ trong lý thuyết tứ trụ tử bình

Trong cùng một môi trường sống như nhau, có người mệnh yểu, có người thọ tới 70 - 80 tuổi trở lên. Điều này khiến nhiều người quan tâm muốn tìm hiểu tuổi thọ khác nhau của mỗi con người.

Với hy vọng giúp bạn đọc tìm hiểu về việc này, tôi mạnh dạn biên soạn cuốn sách “Dấu hiệu trường thọ trong Lý thuyết Tứ trụ Tử Bình” dựa trên Lý thuyết Tứ trụ Tử Bình. Đây  là một môn khó, tuy chỉ có bốn trụ và tám chữ (còn gọi là Tứ trụ, Bát tự). Bốn trụ là: trụ năm, trụ tháng, trụ ngày, trụ giờ. Mỗi trụ có hai chữ, trên là can, dưới là chi, tổng cộng là tám chữ. Đi sâu phân tích tám chữ này sâu rộng mênh mông như biển. Cuốn sách “Uyên hải Tử Bình” (Tử Bình sâu rộng như biển) đã phần nào nói lên điều đó.
Trong quá trình biên soạn, tôi đã cố gắng dùng các từ ngữ phổ thông để diễn đạt các khái niệm trừu tượng của Tử Bình, đồng thời đi sâu phân tích các chủ đề riêng rẽ có tính cốt lõi để bạn đọc khỏi bị sa vào không gian quá rộng lớn của Tử Bình, giúp bạn đọc dễ nắm bắt hơn. Cuốn sách “Dấu hiệu trường thọ trong Lý thuyết Tứ trụ Tử Bình” đi sâu về chủ đề tuổi thọ.

Bể học là vô cùng, kiến thức của con người là hữu hạn. Dù đã rất cố gắng trong quá trình biên soạn, cuốn sách cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong nhận được sự góp ý phê bình và lượng thứ của bạn đọc.

TP. Hải Dương, Mùa xuân 2018

Tác giả

ngự dược nhật ký trong châu bản triều nguyễn

ngự dược nhật ký trong châu bản triều nguyễn

Y học cổ truyền được hình thành từ ngàn xưa, gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Trong một thời gian dài, đó là nền y học chính thống của đất nước. Ngày nay, y học cổ truyền là một bộ phận quan trọng của nền y tế quốc gia, được quan tâm kế thừa, phát huy và phát triển.

Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế xưa kia từng là thủ phủ xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn, là kinh đô cả nước thời Tây Sơn (1789-1801) và thời Nguyễn (1802-1945), là nơi đặt Thái Y Viện của nhiều triều đại, với những thành tựu về y học cổ truyền, nơi hội tụ nhiều thế hệ ngự y. Nhiều tài liệu y dược Thái Y Viện của các thời đại này, nhất là của Thái Y Viện triều Nguyễn đang còn lưu giữ trong các kho tư liệu khắp cả nước ở các thư viện nhà nước hay gia đình.
Trong những năm qua, các hoạt động sưu tầm, biên dịch và triển khai ứng dụng các bài thuốc và các phương pháp chữa bệnh, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của y học cổ truyền Việt Nam nói chung và của Thái Y Viện nói riêng còn có nhiều hạn chế.
Do vậy, việc sưu tầm, biên dịch, ứng dụng các bài thuốc Thái Y Viện là thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước và của Trung ương Hội Đông y Việt Nam về bảo tồn phát huy, phát triển nền y học cổ truyền đặc sắc của Thừa Thiên Huế nói riêng và của Việt Nam nói chung. Hội Đông Y Thừa Thiên Huế là nơi gắn liền sự hình thành của Châu bản, cũng là nơi có nhu cầu to lớn trong việc khai thác, phát huy giá trị y học trong Châu bản. Vì vậy để khai thác, phát huy giá trị là việc làm hết sức cần thiết và phù hợp. Và đây cũng là một phương cách hữu hiệu để tôn vinh giá trị của di sản Châu bản ngay tại nơi nó được sinh ra.
Nhằm góp phần bảo tồn, kế thừa và phát triển nền y học cổ truyền đương đại, chúng tôi tiến hành sưu tầm các tài liệu để có được các tài liệu về bài thuốc của Thái Y Viện triều Nguyễn bằng chữ Hán. Sau đó đề xuất hướng sử dụng các bài thuốc Thái Y Viện có tính khả thi, phù hợp với tình hình hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu là các bài thuốc, các phương pháp chữa trị và bảo vệ sức khỏe theo y học cổ truyền có nguồn gốc từ Thái Y Viện trích trong Châu bản triều Nguyễn, đã tiến hành sưu tầm trên phạm vi toàn quốc. Phần lớn các tài liệu sưu tầm được ở Viện nghiên cứu Hán Nôm và Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.
“Ngự dược nhật ký” gồm những trang ghi chép về việc dùng thuốc của vua Gia Long, trong tập sách này chúng tôi bổ sung thêm những trang ghi chép về việc dùng thuốc của vua Minh Mạng và Tự Đức với tựa đề “Ngự Dược Nhật Ký trong Châu bản triều Nguyễn”, là tài liệu ngự dược đang lưu trữ hiện nay chưa được phiên dịch. Đây là loại di sản văn hóa phi vật thể quí hiếm, được xem là bảo vật quốc gia. Về mặt y dược, các bệnh án ngự chẩn, ngự trị cho nhà vua, bao gồm: Biện chứng luận trị, lập phương và dâng tiến ngự dược của Thái Y Viện có giá trị về mặt pháp lý nhất hiện nay.

bộ từ điển thiền tông tân biên - tập 1

bộ từ điển thiền tông tân biên - tập 1

"Thiền tông – căn cứ vào lịch sử hình thành và phát triển, với rất nhiều truyền thuyêt sinh động và thiền ngữ kỳ dị tuyệt vời, cộng với sự ảnh hưởng dài lâu sâu sắc đến nền văn hóa Đông phương , cùng sự xâm nhập không ngừng của nó vào nền văn hóa Tây phương hiện nay, đã tạo thành thế giới Thiền sâu xa và rộng mở.

Trong thế giới thiền ấy, có lúc như hoa đỏ liễu xanh (hoa hồng liễu lục), mắt ngang mũi dọc (Tỵ thụ nhãn hoành) rất phổ thông, rất bình thường, đôi khi như giọt tuyết trên lò lửa (Hồng lô thượng nhất điểm tuyết) thật đắc biệt, thật lạ lùng khiến mọi người vừa sợ vừa ngờ. Thiền quả là cao xa khó nắm bắt, nhưng lại gần gũi giản dị, vừa bình thường thực tế vừa siêu hình thần bí, không thể nghĩ bàn, đầy ấp những câu đố khó hiểu. Song càng khó hiểu càng  gợi cho người đọc, người nghe bao niềm say mê, bao nỗi thắc mắc…

Quyển sách này được hình thành trên nền tảng  Thiền Tông Đại Từ Điển do nhóm Viên Tân thực hiện, NXB Sùng Văn xuất bản năm 2010. Sở dĩ mang tên Từ điển Thiền Tông – Tân Biên vì nội dung của nó được chung tôi soạn dịch bao gồm các mục từ tác phẩm, thuật ngữ, nhất là về phần địa danh, phụ lục không chỉ của Trung hoa mà còn của Ấn Độ, Việt Nam, Nhật Bản, Cao Ly được chỉnh sửa, bổ sung hình ảnh minh họa hết sức phong phú.

Do tính đặc biệt của thuật ngữ Thiền tong trong các tác phẩm chữ Hán về Thiền học, một thuật ngữ thiền đôi khi có đến hai nghĩa trái ngược nhau tùy ngữ cảnh, và khi tra cứu trong các từ điển Hán Việt thông thường thì không có.Cũng nhằm đáp ứng nhu cầu tìm học, phiên dịch các văn bản thiền tứ Hán ngữ sang Việt ngữ của khá nhiều người nên sách này ra đời.

Nay việc phiên dịch bổ sung và hiệu đính đã hoàn tất, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu quyển sách này đến quý độc giả gần xa. Nhân đây, chúng tôi xin chân thành cảm ơn Thượng tọa Kiến Nguyệt, Đại đức Chơn Không Khai Chánh, Ni Sư Hạnh Huệ , Sư cô Đinh Quang, Tiến sĩ Đỗ Quốc Bảo, quý Phật tử Khai Thành, Tín Thiện, Vũ Hương và Diệu Phụng đã hết long giúp đỡ để hoàn thành tập sách , đồng thời cũng vô cùng tri ơn các tác giả có sách trong thư mục tham khảo. Bởi điều kiện biên dịch và khả năng của dịch giả còn có hạn, từ điển Thiền Tông – Tân Biên khó tránh khỏi những sơ suất. Với long biết ơn sâu sắc, chúng tôi mong muốn quý độc giả cao minh chỉ giáo để sách này trong lần tái bản sau được hoàng chỉnh hơn."

phương thang y học cổ truyền

phương thang y học cổ truyền

Cuốn ""PHƯƠNG THANG Y HỌC CỔ TRUYỀN"" có trên 10.000 phương thang của các danh y trong nước và ngoài nước.

Một phương thuốc dùng đặc trị một bệnh hoặc 2-3 bệnh, việc sắp xếp nhiều phương thuốc có tác dụng và chỉ định tương tự được xếp vào một loại bệnh hoặc hai, ba... loại bệnh được xếp vào một nhóm bệnh, tuy chưa được hoàn chỉnh, nhưng có thể giup bạn đọc tra cứu được thuận tiện.
Khi tra cứu sử dụng, người thầy thuốc có thể căn cứ vào bệnh trạng của bệnh nhân để dùng NGUYÊN BẢN của PHƯƠNG THANG hoặc GIA GIẢM (thêm, bớt) các DƯỢC VỊ và LIỀU LƯỢNG nếu thấy cần thiết. 
Đây là một cuốn sách cần thiết, có thể coi đây là một CẨM NANG tra cứu tiện lợi cho cả thầy thuốc Lương y và Tây y, ở các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (Viện, Bệnh viện...), nơi sản xuất, phân phối thuốc (xí nghiệp, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn y học cổ truyền và tây dược, kho thuốc, hiệu thuốc, nhà thuốc tư nhân, cơ sở khám, chữa bệnh bằng y học cổ truyền...) thuộc cơ sở nhà nước và tư nhân, từ trung ương đến địa phương. Đặc biệt cuốn sách sẽ rất hữu ích cho học sinh - sinh viên các trường Đại học và Trung học chuyên nghiệp về y học cổ truyền. Cuốn sách còn là tài liệu tham khảo về chuyên môn cho các cơ quan có chức năng quản lý về thuốc và các viện nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến thuốc...

bộ sổ tay học phật (tập 2)

bộ sổ tay học phật (tập 2)

SỔ TAY HỌC PHẬT - TẬP 2

1. Tổ Thế Thân tu tập 12 năm hướng về Phật Di Lặc mà không thấy được kim thân của Phật Di Lặc. Ngài chán nản bỏ động tu, đi ra ngoài. Khi nhìn thấy một con chó ghẻ nằm bên đường, ngài khởi từ tâm, định dùng lưỡi liếm những vết lở loét, giòi bọ của nó để chữa trị, thì con chó bỗng biến mất và kim thân Phật Di Lặc hiện ra rực rỡ.

(Luận văn Tiến sĩ, nghiên cứu về Đại Sư  Thế Thân của Lê Mạnh Thát, bảo vệ tại Hoa Kỳ)
2. Một người nữ nếu có đọc một bài kệ kinh Đại Bửu Tích thì kiếp sau sẽ không làm người nữ nữa. Bửu Tràng Đà la ni có năng lực chuyển nữ thành nam.

3. Khi thành đệ tử Phật, Xá Lợi Phất 2 tuần sau chứng quả A La Hán, Mục Kiền Liên thì sau một tuần.

4. Ngài Ni Đề sau khi xuất gia, tu 4 tháng chứng A La Hán. Phật nói ông từng là Tam Tạng Pháp sư thời Phật Ca Diếp. Ông có một đệ tử chứng quả Tu Đà Hoàn mà ông không hay biết. Một hôm ông bệnh, nhờ đệ tử đổ phân, quả báo ông phải gánh chịu là 500 đời phải hốt phân.
5. Một ngày nọ vua Ba Tư Nặc thỉnh Phật và chư tăng vào cung thọ trai. Trong đó có một vị tỳ kheo hơi thở có mùi thơm của hoa sen bát ngát. Vua nghi ngờ ông dùng ma thuật để quyến rũ cung nữ, nên kêu ông đi súc miệng, nhưng càng súc càng thơm. Vua thắc mắc, Phật bảo thời quá khứ vị tỳ kheo này thường tán thán công hạnh chư Phật, nên có phước báo như thế.

6. Ông Lâm ở Đài Loan phóng sanh một con rùa lớn. Ông bỏ ra rất nhiều tiền để mua nó và có khắc tên ông vì sợ người ta bắt ăn thịt. Mười sáu năm sau, con trai ông bị rơi xuống biển, sống sót nhờ con rùa ấy đưa vào bờ.

7. Kiếp trước, thiền sư Ô Sào và Bạch Cư Dị là hai người bạn đồng tu. Bạch Cư Dị hỏi:
- Nhà anh giàu không?
Ô Sào trả lời:
- Cha tôi giàu lắm, tiền không biết làm gì cho hết. Tôi thấy vậy chán quá nên đi tu.
Ô Sào hỏi lại:
- Nhà anh giàu không?
Bạch Cư Dị nói:
- Nhà tôi nghèo lắm, thiếu thốn mọi thứ nên tôi chán quá tôi đi tu. Mong sao kiếp sau tôi làm một ông quan thật giàu.
Chính tâm nguyện đó mà Ô Sào phải đầu thai theo bạn để chuyển mê khai ngộ. 
Kiếp lai sinh, quả thật Bạch Cư Dị là một Quan Thị lang, một ông quan có tâm hồn thi sĩ, bạn với thơ và rượu, và ông có nhân duyên gặp lại ngài Ô Sào. Ông hỏi thiền sư, đại ý Phật Pháp là gì. Ô Sào trả lời:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Quan Thị lang nói, điều đó con nít lên 3 cũng biết. Ô Sào tiếp lời, nhưng ông già 80 làm không được.
Hai người bạn, một tăng một tục, cũng là trường hợp của Tô Đông Pha và thiền sư Phật Ấn. Họ cũng có nhân duyên làm bạn bè nhiều kiếp, Và Phật Ấn cũng muốn thức tỉnh Tô Đông Pha, mong Hàn Lâm học sĩ đừng dấn bước quá sâu vào mê lộ.
Phật Ấn biết Tô có 7 người thiếp nên một hôm hỏi… mượn một. Tô Đông Pha cả cười đồng ý, sai người thiếp thứ 7 đến, dặn rằng:
- Nàng cứ đến xem hòa thượng xử sự ra sao.

Đêm đó hòa thượng sắp xếp một phòng cho cô nghỉ. Cô đinh ninh hòa thượng sẽ đến phòng mình nhưng chờ hoài không thấy, cô tò mò hé cửa xem hòa thượng đang làm gì bên ngoài, thì thấy ngài cho đốt 7 chiếc lò đỏ rực, suốt đêm bước qua bước lại 7 cái lò ấy. Sáng hôm sau cô trở về thuật lại chuyện đêm qua cho Tô Đông Pha nghe. Ông này lập tức hiểu điều ngài muốn nhắn gởi. Có 7 người thiếp như có 7 lò than hồng, người tu hành thì đã bước qua ái dục.

8. Do có “tuệ phân tích” mà có thể nói về một đề tài nói hoài không hết. Có vị tuy đã chứng A La Hán mà không có “tuệ phân tích” này.
9. Một bầy khỉ nhìn thấy Chư Tăng đảnh lễ Xá lợi Tóc và Răng của Đức Phật, khi Chư Tăng đi rồi, chúng cũng ra lạy. Kết quả là bầy khỉ được sanh thiên, 500 con khỉ sanh về Đao Lợi Thiên.
10. Trong truyện “Hạt đậu biết nhảy”, một bà mẹ dặn con trai khi sang Ấn Độ buôn bán nhớ mua về cho bà một hạt Xá lợi Phật. Nhưng anh này lần nào cũng quên. Dù bà đã tha thiết dặn đi dặn lại, nhưng anh vẫn quên. Đến khi sực nhớ, anh ta lượm một cái răng chó đem về nói dối với mẹ là Xá lợi Phật. Bà mừng rỡ, cung kính tôn trí và hằng ngày đảnh lễ. Cho tới một ngày, hạt Xá lợi giả đó cũng tỏa hào quang.
11. Tụng một đoạn kinh Pháp Cú cho đứa trẻ khóc đêm nghe:
Nếu ai biết Pháp Cú
Tự mình hộ trì giới
Xa lìa sự sát sanh
Nói thật, không nói dối
Tự bỏ điều phi nghĩa
Giải thoát đường quỷ thần.

bộ sổ tay học phật (tập 3)

bộ sổ tay học phật (tập 3)

SỔ TAY HỌC PHẬT - TẬP 3

1. Tổ Thế Thân tu tập 12 năm hướng về Phật Di Lặc mà không thấy được kim thân của Phật Di Lặc. Ngài chán nản bỏ động tu, đi ra ngoài. Khi nhìn thấy một con chó ghẻ nằm bên đường, ngài khởi từ tâm, định dùng lưỡi liếm những vết lở loét, giòi bọ của nó để chữa trị, thì con chó bỗng biến mất và kim thân Phật Di Lặc hiện ra rực rỡ.

(Luận văn Tiến sĩ, nghiên cứu về Đại Sư  Thế Thân của Lê Mạnh Thát, bảo vệ tại Hoa Kỳ)
2. Một người nữ nếu có đọc một bài kệ kinh Đại Bửu Tích thì kiếp sau sẽ không làm người nữ nữa. Bửu Tràng Đà la ni có năng lực chuyển nữ thành nam.

3. Khi thành đệ tử Phật, Xá Lợi Phất 2 tuần sau chứng quả A La Hán, Mục Kiền Liên thì sau một tuần.

4. Ngài Ni Đề sau khi xuất gia, tu 4 tháng chứng A La Hán. Phật nói ông từng là Tam Tạng Pháp sư thời Phật Ca Diếp. Ông có một đệ tử chứng quả Tu Đà Hoàn mà ông không hay biết. Một hôm ông bệnh, nhờ đệ tử đổ phân, quả báo ông phải gánh chịu là 500 đời phải hốt phân.

5. Một ngày nọ vua Ba Tư Nặc thỉnh Phật và chư tăng vào cung thọ trai. Trong đó có một vị tỳ kheo hơi thở có mùi thơm của hoa sen bát ngát. Vua nghi ngờ ông dùng ma thuật để quyến rũ cung nữ, nên kêu ông đi súc miệng, nhưng càng súc càng thơm. Vua thắc mắc, Phật bảo thời quá khứ vị tỳ kheo này thường tán thán công hạnh chư Phật, nên có phước báo như thế.

6. Ông Lâm ở Đài Loan phóng sanh một con rùa lớn. Ông bỏ ra rất nhiều tiền để mua nó và có khắc tên ông vì sợ người ta bắt ăn thịt. Mười sáu năm sau, con trai ông bị rơi xuống biển, sống sót nhờ con rùa ấy đưa vào bờ.

7. Kiếp trước, thiền sư Ô Sào và Bạch Cư Dị là hai người bạn đồng tu. Bạch Cư Dị hỏi:
- Nhà anh giàu không?
Ô Sào trả lời:
- Cha tôi giàu lắm, tiền không biết làm gì cho hết. Tôi thấy vậy chán quá nên đi tu.
Ô Sào hỏi lại:
- Nhà anh giàu không?
Bạch Cư Dị nói:
- Nhà tôi nghèo lắm, thiếu thốn mọi thứ nên tôi chán quá tôi đi tu. Mong sao kiếp sau tôi làm một ông quan thật giàu.
Chính tâm nguyện đó mà Ô Sào phải đầu thai theo bạn để chuyển mê khai ngộ. 
Kiếp lai sinh, quả thật Bạch Cư Dị là một Quan Thị lang, một ông quan có tâm hồn thi sĩ, bạn với thơ và rượu, và ông có nhân duyên gặp lại ngài Ô Sào. Ông hỏi thiền sư, đại ý Phật Pháp là gì. Ô Sào trả lời:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Quan Thị lang nói, điều đó con nít lên 3 cũng biết. Ô Sào tiếp lời, nhưng ông già 80 làm không được.
Hai người bạn, một tăng một tục, cũng là trường hợp của Tô Đông Pha và thiền sư Phật Ấn. Họ cũng có nhân duyên làm bạn bè nhiều kiếp, Và Phật Ấn cũng muốn thức tỉnh Tô Đông Pha, mong Hàn Lâm học sĩ đừng dấn bước quá sâu vào mê lộ.
Phật Ấn biết Tô có 7 người thiếp nên một hôm hỏi… mượn một. Tô Đông Pha cả cười đồng ý, sai người thiếp thứ 7 đến, dặn rằng:
- Nàng cứ đến xem hòa thượng xử sự ra sao.

Đêm đó hòa thượng sắp xếp một phòng cho cô nghỉ. Cô đinh ninh hòa thượng sẽ đến phòng mình nhưng chờ hoài không thấy, cô tò mò hé cửa xem hòa thượng đang làm gì bên ngoài, thì thấy ngài cho đốt 7 chiếc lò đỏ rực, suốt đêm bước qua bước lại 7 cái lò ấy. Sáng hôm sau cô trở về thuật lại chuyện đêm qua cho Tô Đông Pha nghe. Ông này lập tức hiểu điều ngài muốn nhắn gởi. Có 7 người thiếp như có 7 lò than hồng, người tu hành thì đã bước qua ái dục.

8. Do có “tuệ phân tích” mà có thể nói về một đề tài nói hoài không hết. Có vị tuy đã chứng A La Hán mà không có “tuệ phân tích” này.
9. Một bầy khỉ nhìn thấy Chư Tăng đảnh lễ Xá lợi Tóc và Răng của Đức Phật, khi Chư Tăng đi rồi, chúng cũng ra lạy. Kết quả là bầy khỉ được sanh thiên, 500 con khỉ sanh về Đao Lợi Thiên.
10. Trong truyện “Hạt đậu biết nhảy”, một bà mẹ dặn con trai khi sang Ấn Độ buôn bán nhớ mua về cho bà một hạt Xá lợi Phật. Nhưng anh này lần nào cũng quên. Dù bà đã tha thiết dặn đi dặn lại, nhưng anh vẫn quên. Đến khi sực nhớ, anh ta lượm một cái răng chó đem về nói dối với mẹ là Xá lợi Phật. Bà mừng rỡ, cung kính tôn trí và hằng ngày đảnh lễ. Cho tới một ngày, hạt Xá lợi giả đó cũng tỏa hào quang.
11. Tụng một đoạn kinh Pháp Cú cho đứa trẻ khóc đêm nghe:
Nếu ai biết Pháp Cú
Tự mình hộ trì giới
Xa lìa sự sát sanh
Nói thật, không nói dối
Tự bỏ điều phi nghĩa
Giải thoát đường quỷ thần.

người nữ ngoại đạo khujjuttara

người nữ ngoại đạo khujjuttara

"Khujjuttara có thể là một người không có ý nghĩa gì trong thế giới đạo Phật, nhưng cuộc đời cô ấy phản ánh nhiều điểm đặc trưng của Phật giáo.

Thứ nhất, tuy là một phụ nữ ở tầng lớp bần cùng nhưng lại được hoàng hậu yêu thương như con gái ruột, đó là điều nổi bậy của tầng lớp bần cùng đang tu học thời đó.

Thứ hai, cuộc đời Khujjuttara thật sự có ý nghĩa chỉ từ một sự việc nho nhỏ mà có thể dẫn đến sự thay đổi to lớn cho cuộc đời của một con người. Điều này được thể hiện nơi chính cô ta, khi được nghe lời chỉ dạy quý báu của Đức Thế Tôn.

Dẫu là phụ nữ ở tầng lớp bần cùng, Khujjuttara lại trở thành người giáo thọ cho hoàng hậu, bà chủ của cô ta. Qua đó, chúng ta học được bài học về sự bình đẳng trong cuộc đời của cô.

Nhà xuất bản Sa Myak Prakashan được ủy nhiệm trong việc xuất bản hàng ngàn câu chuyện ngắn như thế. Chúng tôi hy vọng sẽ hoàn thành mục tiêu của mình qua sự giúp đỡ và ủng hộ của quý vị độc giả và nhà văn Giác ngộ. Chúng tôi luôn quyết tâm thực hiện và kính chúc đến quý độc giả một cuộc sống tốt đẹp - an lành.

Xin chân thành cảm ơn dịch giả MOSES MICHAEL đã chuyển dịch quyển sách từ tiếng Hin - di sang Anh ngữ."

bộ chuyện vãng sanh tập 3

bộ chuyện vãng sanh tập 3

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính thưa chư liên hữu gần xa, Đại Sư Ân Quang là vị Tổ thứ 13 của tịnh Độ Tông, chính là hóa than cả Đại Thế Chí Bồ Tát, Ngài đã từng chỉ dạy:

“ Không luận xuất gia, tại gia, đều phải kính trên dưới hòa, nhẫn điều người không thể nhẫn, làm việc người không thể làm, chịu thay khổ nhọc, thành tựu việc tốt cho người. Lúc tĩnh tọa thường xét lỗi mình, khi nhàn đàm đừng chê kẻ khác. Đi đứng, nằm , ngồi, ăn cơm, mặc áo, từ sang đến tối, từ tối đến sang chỉ chuyên nhất một câu niệm Phật, hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm, không cho gián đoạn. Ngoài niệm phật ra không khởi niệm khác. Nếu như vọng niệm chợt sinh, ngay đó liền phải dứt trừ. Thường luôn luôn hổ thẹn, sám hối lỗi lầm. Dù có tu trì vẫn thấy mình khiếm khuyết, không được kiêu căng, chỉ xét lỗi mình, không vạch lỗi người, chỉ nhìn cái hay, không tìm điều dở, luôn luôn nghĩ tất cả là Bồ Tát, ta chỉ là phàm phu. Nếu y lời này dụng công tu hành, quyết định vãng sanh Tây Phương cực lạc.

Hãy nên tìm một nơi chân that tu đạo, giữu tâm khiêm sạch, chết sạch những vọng dục, tu trì Tịnh Nghiệp.

Nghĩ không còn sống lâu, cái chết có thể đến sớm tối, nào còn dám xen vô chuyện người khác.

Sanh long chân thật, phát nguyện thiết tha, chí thành, cung kính trì danh hiệu Phật, nhiếp tai lắng nghe từng câu từng chữ nối với nhau đừng sót câu nào. Thường nghe cả ngày tiếng niệm Phật của mình tâm sẽ thanh tịnh , tâm sẽ duy nhất.

Dẫu cho tâm đã tịnh, vọng bị khuất phục rồi, chớ nên sanh tâm hoan hỷ, tự khoe khoang với người khác.

Gặp bất cứa ai đều khuyên họ niệm phật, cầu sanh Tây Phương.Con người ở trong thế gian chẳng thể siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử đều là do vọng niệm gây nên.

Ngay trong lúc niệm Phật, Liền nghĩ như chính mình đã chết,được được vãng sanh, trong mỗi một niệm đều gác bỏ hết thảy tình niệm thế gian ra ngoài. Trừ một câu Phật hiệu ra, Không một niệm nào để được!…’’

Những ai chân thật thực hành theo lời dạy này thả đều đại được lợi ích chân thật, số người vãng sanh đông nhiều không thể tính đếm nổi.

Tập chuyện vãng sanh tập 3 vừa hoàn tất, chúng tôi xin ra mắt cúng dường khắp tất cả mọi nơi. Việc làm này nếu có chút công đức nào, xin hồi hướng cho mười phương pháp giới chúng sanh, đồng sanh Tây Phương, đồng thành phật giáo.

học đạo trong đời

học đạo trong đời

Học Đạo Trong Đời là nỗ lực vận dụng lời Phật dạy vào đời sống thường ngày một cách có hệ thống, với các phần giáo lý căn bản nhất như Năm giới, như tiến trình tu tập Giới Định Tuệ, hoặc thiết thực hơn là những lợi ích của sự tu tập và áp dụng lời Phật dạy vào đời sống. Những lá thư này được viết ra trên căn bản ban đầu là sự chia sẻ hàng tuần với thành viên của cộng đồng Rộng Mở Tâm Hồn, vì thế không tránh khỏi một số những nội dung được nhắm đến trao đổi trực tiếp với các vấn đề được thành viên nêu ra cùng chúng tôi, cũng như phù hợp với các diễn tiến của thực tế đang diễn ra trong từng thời điểm.

Trong quá trình biên soạn thành sách, chúng tôi đã có một số điều chỉnh thích hợp, nhưng đôi khi những tính chất cá biệt của một số vấn đề có thể vẫn cần được nhận hiểu trong bối cảnh cụ thể đã phát sinh vấn đề đó. Dù vậy, khi nhìn từ một góc độ khác thì chính những yếu tố thực tiễn này sẽ tạo ra tính sinh động và thiết thực cho những vấn đề được trình bày trong sách. Do đó, chúng tôi quyết định vẫn giữu lại thay vì lược bỏ chúng đi. Mong rằng độc giả sẽ xem những yếu tố thực tiễn này như những ví dụ minh họa sống động cho các vấn đề đang được đề cập đến.

Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

Liên Hệ