combo sách không diệt không sinh đừng sợ hãi - bìa cứng - phiên bản đặc biệt - tặng kèm postcard + bút chì khắc tên sách (độc quyền tại fahasa) + muôn kiếp nhân sinh - many times, many lives (bộ 2 cuốn)

combo sách không diệt không sinh đừng sợ hãi - bìa cứng - phiên bản đặc biệt - tặng kèm postcard + bút chì khắc tên sách (độc quyền tại fahasa) + muôn kiếp nhân sinh - many times, many lives (bộ 2 cuốn)

Combo Sách Không Diệt Không Sinh Đừng Sợ Hãi - Bìa Cứng - Phiên Bản Đặc Biệt - Tặng Kèm Postcard + Bút Chì Khắc Tên Sách (Độc Quyền Tại Fahasa) + Muôn Kiếp Nhân Sinh - Many Times, Many Lives (Bộ 2 Cuốn) 

1. Muôn Kiếp Nhân Sinh - Many Times, Many Lives

Giáo sư John Vũ – Nguyên Phong và những câu chuyện chưa từng có về tiền kiếp, khám phá luật Nhân quả, Luân hồi.

“Muôn kiếp nhân sinh” là tác phẩm do Giáo sư John Vũ - Nguyên Phong viết từ năm 2017 và hoàn tất đầu năm 2020 ghi lại những câu chuyện, trải nghiệm tiền kiếp kỳ lạ từ nhiều kiếp sống của người bạn tâm giao lâu năm, ông Thomas – một nhà kinh doanh tài chính nổi tiếng ở New York. Những câu chuyện chưa từng tiết lộ này sẽ giúp mọi người trên thế giới chiêm nghiệm, khám phá các quy luật về luật Nhân quả và Luân hồi của vũ trụ giữa lúc trái đất đang gặp nhiều tai ương, biến động, khủng hoảng từng ngày.

“Muôn kiếp nhân sinh” là một bức tranh lớn với vô vàn mảnh ghép cuộc đời, là một cuốn phim đồ sộ, sống động về những kiếp sống huyền bí, trải dài từ nền văn minh Atlantis hùng mạnh đến vương quốc Ai Cập cổ đại của các Pharaoh quyền uy, đến Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ ngày nay.

“Muôn kiếp nhân sinh”cung cấp cho bạn đọc kiến thức mới mẻ, vô tận của nhân loại lần đầu được hé mở, cùng những phân tích uyên bác, tiên đoán bất ngờ về hiện tại và tương lai thế giới của những bậc hiền triết thông thái. Đời người tưởng chừng rất dài nhưng lại trôi qua rất nhanh, sinh vượng suy tử, mong manh như sóng nước. Luật nhân quả cực kỳ chính xác, chi tiết, phức tạp được thu thập qua nhiều đời, nhiều kiếp, liên hệ tương hỗ đan xen chặt chữ lẫn nhau, không ai có thể tính được tích đức này có thể trừ được nghiệp kia không, không ai có thể biết được khi nào nhân sẽ trổ quả. Nhưng, một khi đã gây ra nhân thì chắc chắn sẽ gặt quả - luật Nhân quả của vũ trụ trước giờ không bao giờ sai.

Luật Luân hồi và Nhân quả đã tạo nhân duyên để người này gặp người kia. Gặp nhau có khi là duyên, có khi là nợ; gặp nhau có lúc để trả nợ, có lúc để nối lại duyên xưa. Có biết bao việc diễn ra trong đời, tưởng chừng như là ngẫu nhiên nhưng thật ra đã được sắp đặt từ trước. Luân hồi là một ngôi trường rộng lớn, nơi tất cả con người, tất cả sinh vật đều phải học bài học của riêng mình cho đến khi thật hoàn thiện mới thôi. Nếu không chịu học hay chưa học được trọn vẹn thì buộc phải học lại, chính xác theo quy luật của Nhân quả.

Thomas đã chia sẻ vì sao đã kể những câu chuyện riêng tư huyền bí này với Giáo sư John Vũ để thực hiện tác phẩm “Muôn kiếp nhân sinh”:

 “Hiện nay thế giới đang trải qua giai đoạn hỗn loạn, xáo trộn, mà thật ra thì mọi quốc gia đều đang gánh chịu những nghiệp quả mà họ đã gây ra trong quá khứ. Mỗi quốc gia, cũng như mọi cá nhân, đều có những nghiệp quả riêng do những nhân mà họ đã gây ra. Cá nhân thì có ‘biệt nghiệp‘ riêng của từng người, nhưng quốc gia thì có ‘cộng nghiệp‘ mà tất cả những người sống trong đó đều phải trả.

Thường thì con người, khi hành động, ít ai nghĩ đến hậu quả, nhưng một khi hậu quả xảy đến thì họ nghĩ gì, làm gì? Họ oán hận, trách trời, trách đất, trách những người chung quanh đã gây ra những hậu quả đó? Có mấy ai biết chiêm nghiệm, tự trách mình và thay đổi không?

Tôi mong chúng ta - những cánh bướm bé nhỏ rung động mong manh cũng có thể tạo nên những trận cuồng phong mãnh liệt để thức tỉnh mọi người.

Tương lai của mỗi con người, mỗi tổ chức, mỗi quốc gia và cả hành tinh này sẽ ra sao trong giai đoạn sắp tới là tùy thuộc vào thái độ ứng xử, nhìn nhận và thức tỉnh của từng cá nhân, từng tổ chức, từng quốc gia đó tạo nên. Nếu muốn thay đổi, cần khởi đầu bằng việc nhận thức, chuyển đổi tâm thức, lan tỏa yêu thương và chia sẻ sự hiểu biết từ mỗi người chúng ta trước.

Nhân quả đừng đợi thấy mới tin.

Nhân quả là bảng chỉ đường, giúp con người tìm về thiện lương“

Cuốn sách được xuất bản bằng tiếng Việt trước khi được chuyển nhượng bản quyền cho các quốc gia khác trên thế giới.

Về tác giả

Tác giả Nguyên Phong (Vũ Văn Du) du học ở Mỹ từ năm 1968, tốt nghiệp cao học Sinh vật học, Điện toán. Ông từng là Kỹ sư trưởng, CIO của Tập đoàn Boeing của Mỹ, Viện trưởng Viện Công nghệ Sinh học Đại học Carnegie Mellon. Ông được mọi người biết tới là Giáo sư John Vu – Nhà khoa học uy tín về công nghệ thông tin. , CMMI và từng giảng dạy ở nhiều trường đại học trên thế giới.

 Nguyên Phong là bút danh của bộ sách văn hóa tâm linh được dịch, viết phóng tác từ trải nghiệm, tiềm thức và quá trình nghiên cứu, khám phá các giá trị tinh thần Đông phương. Ông đã viết phóng tác tác phẩm bất hủ Hành trình về Phương Đông năm 24 tuổi (1974). Các tác phẩm khác của Nguyên Phong được bạn đọc nhiều thế hệ yêu thích: Ngọc sáng trong hoa sen, Bên rặng tuyết sơn, Hoa sen trên tuyết, Hoa trôi trên sóng nước, Huyền thuật và các đạo sĩ Tây Tạng, Trở về từ xứ tuyết, Trở về từ cõi sáng, Minh triết trong đời sống, Đường mây qua xứ tuyết, Dấu chân trên cát, Đường mây trong cõi mộng, Đường mây trên đất hoa… và bộ sách dành cho sinh viên, thầy cô: Khởi hành, Kết nối, Bước ra thế giới, Kiến tạo thế hệ Việt Nam ưu việt, GS John Vu và lời khuyên dành cho thầy cô, GS John Vu và lời khuyên dành cho các bậc cha mẹ.

2. Không Diệt Không Sinh Đừng Sợ Hãi - Bìa Cứng - Phiên Bản Đặc Biệt - FAHASA ĐỘC QUYỀN PHÁT HÀNH

Trong suốt cuộc đời, đức Bụt cũng bị nhiều nhà thần học và các học giả nhiều lần chất vấn về hai triết thuyết đối nghịch nhau: bất diệt hay hư không. Khi được hỏi là có đời sống vĩnh cửu không thì Bụt trả lời: “Không có cái Ngã bất biến.” Khi trả lời về chuyện chết là không còn gì nữa chăng. Bụt nói không có gì trở thành hư vô cả. Ngài bác bỏ cả hai ý tưởng trên.

ôi có một người bạn thân là một nhà sinh vật học chuyên về các loài sống dưới biển. Giống như nhiều người, anh ta tin rằng chết là chết vĩnh viễn. Niềm tin này của anh không tới từ thiếu đức tin hay vì tuyệt vọng, mà vì anh tin vào khoa học. Anh có lòng tin vào thế giới thiên nhiên, vào vẻ đẹp của vũ trụ chưa được khai phá quanh anh, vào khả năng hiểu biết của loài người về vũ trụ đó.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng có lòng tin vững chắc vào khả năng có thể đạt tới hiểu biết của con người. Nhưng mục tiêu của Thầy cao cả hơn sự thu góp các kiến thức khoa học. Đó là sự giải thoát và trí tuệ bát nhã.

Viết những trang sách này bằng kinh nghiệm của chính mình, Thầy Thích Nhất Hạnh đưa ra một thay thế đáng ngạc nhiên cho hai triết lý trái ngược nhau về vĩnh cửu và hư không. Thầy nói: “Tự muôn đời tôi vẫn tự do. Tử sinh chỉ là cửa ngõ ra vào, tử sinh là trò chơi cút bắt. Tôi chưa bao giờ từng sinh cũng chưa bao giờ từng diệt” và “Nỗi khổ lớn nhất của chúng ta là ý niệm về đến-đi, lui-tới.”

Lặp đi, lặp lại hoài, Thầy khuyên chúng ta thực tập nhìn sâu để hiểu được và tự mình nếm được sự tự do của con đường chính giữa, không bị kẹt vào cả hai ý niệm của vĩnh cửu và hư không. Là một thi sĩ nên khi giải thích về các sự trái ngược trong đời sống, Thầy đã nhẹ nhàng vén bức màn vô minh ảo tưởng dùm chúng ta, cho phép chúng ta (có lẽ lần đầu tiên trong đời) được biết rằng sự kinh hoảng về cái chết chỉ có nguyên nhân là các ý niệm và hiểu biết sai lầm của chính mình mà thôi.

Tri kiến về sống, chết của Thầy vô cùng vi tế và đẹp đẽ. Cũng như những điều vi tế, đẹp đẽ khác, cách thưởng thức hay nhất là thiền quán trong thinh lặng. Lòng nhân hậu và từ bi phát xuất từ suối nguồn thâm tuệ của Thích Nhất Hạnh là một loại thuốc chữa lành những vết thương trong trái tim chúng ta.

Thông tin sách:

Chất liệu bìa:

+ Bìa cứng, giấy mỹ thuật

+ Hiệu ứng: Ép kim, cán màn

Chất liệu ruột:

+ Giấy Bãi bằng vàng, định lượng 80 gsm

+ In 2 màu

TỔNG THỂ BÌA SÁCH NHƯ NHÌN XUỐNG HỒ SEN VÀ THẤY HÌNH ẢNH CỦA THẦY

SPIRAL ART và ý nghĩa trong Nghệ thuật

-  Đầu tiên thể hiện mạnh nhất là sự tối giản, tinh tế và tính nhất quán (một nét duy nhất)  

- Một nét tròn liền mạch từ tâm, lúc thanh lúc đậm tạo nên sự trải nghiệm thị giác thu hút và có chiều sâu

- Hiệu ứng xoắn ốc như các bước sóng, thể hiện hình ảnh chân dung phản chiếu dưới nước - gắn với sự hiện diện của sư ông dìu dắt.

- Sự sáng tạo, không bị ràng buộc bởi các quy tắc nghệ thuật truyền thống

- Khi sử dụng để thể hiện chân dung => tạo nên sự tôn vinh cá nhân: Thay vì tạo ra một hình ảnh chi tiết truyền thống, spiral art sẽ trở thành một chiếc cầu nối tinh thần, cho phép người xem chiêm nghiệm và cảm nhận sâu sắc hơn là nhìn vào một hình ảnh thông thường.

SPIRAL ART và ý nghĩa liên tưởng trong Phật giáo

- Một nét từ đầu đến cuối để thể hiện sự tĩnh tâm, tập trung cũng là điểm chung của thực hành thiền trong Phật giáo.

- Một nét từ tâm, thanh-đậm mà thành hình còn có thể hiểu theo ý niệm vạn vật bản chất đều là một nhưng có nhiều cách biểu hiện.(có thể link đến nội dung “Ta từ đâu tới? Ta đi về đâu?” trong sách)

- Hình xoắn ốc “TỪ TÂM” đi ra có thể tượng trưng cho quá trình học và truyền đạt trong phật pháp. Sư ông như một nhà hướng dẫn, giúp người học xoay chuyển và phát triển tương tự như việc xoắn ốc từ tâm ra để tạo ra tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Tương tự, việc tu hành cần tiến triển liên tục và không ngừng nghỉ trong việc rèn luyện tâm hồn để đạt được giác ngộ và giải thoát.

Giấy Có Gân Vải

- Tạo sự mộc mạc, gần gũi và chân phương.

- Làm nền và có tính tương phản cao với hiệu ứng ép kim, tạo sự nâng đỡ cho các chi tiết quan trọng cần nhấn nhá.

- Loại giấy này còn mang dấu ấn thủ công - truyền thống, thể hiện tính chất lâu đời và bền vững.

Hoa Sen Và Hiệu Ứng Nhũ Kim

- Hoa sen trong nghệ thuật và văn hóa Á Đông thường được biểu tượng hóa là sự thanh cao và cao quý. Khi sử dụng hiệu ứng nhũ kim trên họa tiết hoa sen, nó làm tăng thêm sự sang trọng và giá trị đặc biệt cho hoa sen, thể hiện sự cao quý và tinh tế của biểu tượng này.

- Hoa sen cũng có ý nghĩa tôn vinh và sự thoát tục trong phật giáo và tâm linh. Khi sử dụng hiệu ứng nhũ kim trên hoa sen trong thiết kế, nó có thể tạo ra một ý nghĩa tôn thờ và sự tối cao, thể hiện lòng kính trọng và lòng tin vào cái vĩnh cửu.

- Hiệu ứng nhũ kim làm tăng sự huyền bí và quyền năng của họa tiết hoa sen. Nó giúp tạo ra một khía cạnh nghệ thuật và lấp lánh, thu hút sự chú ý và kích thích tò mò, thể hiện sự nổi bật và sức mạnh của biểu tượng này.

Thông qua cuốn sách bạn nhận được gì:

1/ Khái niệm về Không Diệt Không Sinh:

Tất cả mọi thứ trong thế giới không thể tách rời và không có sự diệt hoặc sinh ra mà chỉ có sự biến đổi liên tục

2/ Thấu hiểu về sự kết nối:

Thông qua việc thấu hiểu sự kết nối giữa con người và thiên nhiên, bạn có thể phát triển tình thương và tôn trọng đối với môi trường và mọi hình thức sống.

3/ Phương pháp Thiền quán:

Tập trung vào hiện tại và tạo ra sự yên bình trong tâm hồn. Thấu hiểu sâu sắc về sự tồn tại và tạo ra một tinh thần bình an.

4/ Sống hài hòa:

Học cách đặt ra những giá trị tinh thần và tận hưởng mỗi khoảnh khắc

5/ Tình thương và sự Nhân ái:

Bằng cách sống với lòng từ bi và chia sẻ tình thương, bạn có thể tạo ra môi trường tích cực và giúp đỡ những người xung quanh

6/ Quản lý xúc cảm:

Học cách quản lý xúc cảm, tránh sự bất an và căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày

7/ Chấp nhận thay đổi:

Thay vì sợ hãi hoặc phản đối thay đổi, bạn có thể học cách đối diện với chúng một cách bình thản

8/ Sự giải thoát:

Hiểu về khái niệm giải thoát khỏi khô đau và ràng buộc tâm trí.

không diệt không sinh đừng sợ hãi - bìa cứng - phiên bản đặc biệt - tặng kèm postcard

không diệt không sinh đừng sợ hãi - bìa cứng - phiên bản đặc biệt - tặng kèm postcard

Không Diệt Không Sinh Đừng Sợ Hãi - Bìa Cứng - Phiên Bản Đặc Biệt

Trong suốt cuộc đời, đức Bụt cũng bị nhiều nhà thần học và các học giả nhiều lần chất vấn về hai triết thuyết đối nghịch nhau: bất diệt hay hư không. Khi được hỏi là có đời sống vĩnh cửu không thì Bụt trả lời: “Không có cái Ngã bất biến.” Khi trả lời về chuyện chết là không còn gì nữa chăng. Bụt nói không có gì trở thành hư vô cả. Ngài bác bỏ cả hai ý tưởng trên.

ôi có một người bạn thân là một nhà sinh vật học chuyên về các loài sống dưới biển. Giống như nhiều người, anh ta tin rằng chết là chết vĩnh viễn. Niềm tin này của anh không tới từ thiếu đức tin hay vì tuyệt vọng, mà vì anh tin vào khoa học. Anh có lòng tin vào thế giới thiên nhiên, vào vẻ đẹp của vũ trụ chưa được khai phá quanh anh, vào khả năng hiểu biết của loài người về vũ trụ đó.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng có lòng tin vững chắc vào khả năng có thể đạt tới hiểu biết của con người. Nhưng mục tiêu của Thầy cao cả hơn sự thu góp các kiến thức khoa học. Đó là sự giải thoát và trí tuệ bát nhã.

Viết những trang sách này bằng kinh nghiệm của chính mình, Thầy Thích Nhất Hạnh đưa ra một thay thế đáng ngạc nhiên cho hai triết lý trái ngược nhau về vĩnh cửu và hư không. Thầy nói: “Tự muôn đời tôi vẫn tự do. Tử sinh chỉ là cửa ngõ ra vào, tử sinh là trò chơi cút bắt. Tôi chưa bao giờ từng sinh cũng chưa bao giờ từng diệt” và “Nỗi khổ lớn nhất của chúng ta là ý niệm về đến-đi, lui-tới.”

Lặp đi, lặp lại hoài, Thầy khuyên chúng ta thực tập nhìn sâu để hiểu được và tự mình nếm được sự tự do của con đường chính giữa, không bị kẹt vào cả hai ý niệm của vĩnh cửu và hư không. Là một thi sĩ nên khi giải thích về các sự trái ngược trong đời sống, Thầy đã nhẹ nhàng vén bức màn vô minh ảo tưởng dùm chúng ta, cho phép chúng ta (có lẽ lần đầu tiên trong đời) được biết rằng sự kinh hoảng về cái chết chỉ có nguyên nhân là các ý niệm và hiểu biết sai lầm của chính mình mà thôi.

Tri kiến về sống, chết của Thầy vô cùng vi tế và đẹp đẽ. Cũng như những điều vi tế, đẹp đẽ khác, cách thưởng thức hay nhất là thiền quán trong thinh lặng. Lòng nhân hậu và từ bi phát xuất từ suối nguồn thâm tuệ của Thích Nhất Hạnh là một loại thuốc chữa lành những vết thương trong trái tim chúng ta.

Thông tin sách:

Chất liệu bìa:

+ Bìa cứng, giấy mỹ thuật

+ Hiệu ứng: Ép kim, cán màn

Chất liệu ruột:

+ Giấy Bãi bằng vàng, định lượng 80 gsm

+ In 2 màu

không diệt không sinh đừng sợ hãi - bìa cứng - phiên bản đặc biệt - tặng kèm postcard + bút chì khắc tên sách

không diệt không sinh đừng sợ hãi - bìa cứng - phiên bản đặc biệt - tặng kèm postcard + bút chì khắc tên sách

Không Diệt Không Sinh Đừng Sợ Hãi - Bìa Cứng - Phiên Bản Đặc Biệt - FAHASA ĐỘC QUYỀN PHÁT HÀNH

Trong suốt cuộc đời, đức Bụt cũng bị nhiều nhà thần học và các học giả nhiều lần chất vấn về hai triết thuyết đối nghịch nhau: bất diệt hay hư không. Khi được hỏi là có đời sống vĩnh cửu không thì Bụt trả lời: “Không có cái Ngã bất biến.” Khi trả lời về chuyện chết là không còn gì nữa chăng. Bụt nói không có gì trở thành hư vô cả. Ngài bác bỏ cả hai ý tưởng trên.

ôi có một người bạn thân là một nhà sinh vật học chuyên về các loài sống dưới biển. Giống như nhiều người, anh ta tin rằng chết là chết vĩnh viễn. Niềm tin này của anh không tới từ thiếu đức tin hay vì tuyệt vọng, mà vì anh tin vào khoa học. Anh có lòng tin vào thế giới thiên nhiên, vào vẻ đẹp của vũ trụ chưa được khai phá quanh anh, vào khả năng hiểu biết của loài người về vũ trụ đó.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng có lòng tin vững chắc vào khả năng có thể đạt tới hiểu biết của con người. Nhưng mục tiêu của Thầy cao cả hơn sự thu góp các kiến thức khoa học. Đó là sự giải thoát và trí tuệ bát nhã.

Viết những trang sách này bằng kinh nghiệm của chính mình, Thầy Thích Nhất Hạnh đưa ra một thay thế đáng ngạc nhiên cho hai triết lý trái ngược nhau về vĩnh cửu và hư không. Thầy nói: “Tự muôn đời tôi vẫn tự do. Tử sinh chỉ là cửa ngõ ra vào, tử sinh là trò chơi cút bắt. Tôi chưa bao giờ từng sinh cũng chưa bao giờ từng diệt” và “Nỗi khổ lớn nhất của chúng ta là ý niệm về đến-đi, lui-tới.”

Lặp đi, lặp lại hoài, Thầy khuyên chúng ta thực tập nhìn sâu để hiểu được và tự mình nếm được sự tự do của con đường chính giữa, không bị kẹt vào cả hai ý niệm của vĩnh cửu và hư không. Là một thi sĩ nên khi giải thích về các sự trái ngược trong đời sống, Thầy đã nhẹ nhàng vén bức màn vô minh ảo tưởng dùm chúng ta, cho phép chúng ta (có lẽ lần đầu tiên trong đời) được biết rằng sự kinh hoảng về cái chết chỉ có nguyên nhân là các ý niệm và hiểu biết sai lầm của chính mình mà thôi.

Tri kiến về sống, chết của Thầy vô cùng vi tế và đẹp đẽ. Cũng như những điều vi tế, đẹp đẽ khác, cách thưởng thức hay nhất là thiền quán trong thinh lặng. Lòng nhân hậu và từ bi phát xuất từ suối nguồn thâm tuệ của Thích Nhất Hạnh là một loại thuốc chữa lành những vết thương trong trái tim chúng ta.

Thông tin sách:

Chất liệu bìa:

+ Bìa cứng, giấy mỹ thuật

+ Hiệu ứng: Ép kim, cán màn

Chất liệu ruột:

+ Giấy Bãi bằng vàng, định lượng 80 gsm

+ In 2 màu

TỔNG THỂ BÌA SÁCH NHƯ NHÌN XUỐNG HỒ SEN VÀ THẤY HÌNH ẢNH CỦA THẦY

SPIRAL ART và ý nghĩa trong Nghệ thuật

-  Đầu tiên thể hiện mạnh nhất là sự tối giản, tinh tế và tính nhất quán (một nét duy nhất)  

- Một nét tròn liền mạch từ tâm, lúc thanh lúc đậm tạo nên sự trải nghiệm thị giác thu hút và có chiều sâu

- Hiệu ứng xoắn ốc như các bước sóng, thể hiện hình ảnh chân dung phản chiếu dưới nước - gắn với sự hiện diện của sư ông dìu dắt.

- Sự sáng tạo, không bị ràng buộc bởi các quy tắc nghệ thuật truyền thống

- Khi sử dụng để thể hiện chân dung => tạo nên sự tôn vinh cá nhân: Thay vì tạo ra một hình ảnh chi tiết truyền thống, spiral art sẽ trở thành một chiếc cầu nối tinh thần, cho phép người xem chiêm nghiệm và cảm nhận sâu sắc hơn là nhìn vào một hình ảnh thông thường.

SPIRAL ART và ý nghĩa liên tưởng trong Phật giáo

- Một nét từ đầu đến cuối để thể hiện sự tĩnh tâm, tập trung cũng là điểm chung của thực hành thiền trong Phật giáo.

- Một nét từ tâm, thanh-đậm mà thành hình còn có thể hiểu theo ý niệm vạn vật bản chất đều là một nhưng có nhiều cách biểu hiện.(có thể link đến nội dung “Ta từ đâu tới? Ta đi về đâu?” trong sách)

- Hình xoắn ốc “TỪ TÂM” đi ra có thể tượng trưng cho quá trình học và truyền đạt trong phật pháp. Sư ông như một nhà hướng dẫn, giúp người học xoay chuyển và phát triển tương tự như việc xoắn ốc từ tâm ra để tạo ra tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Tương tự, việc tu hành cần tiến triển liên tục và không ngừng nghỉ trong việc rèn luyện tâm hồn để đạt được giác ngộ và giải thoát.

Giấy Có Gân Vải

- Tạo sự mộc mạc, gần gũi và chân phương.

- Làm nền và có tính tương phản cao với hiệu ứng ép kim, tạo sự nâng đỡ cho các chi tiết quan trọng cần nhấn nhá.

- Loại giấy này còn mang dấu ấn thủ công - truyền thống, thể hiện tính chất lâu đời và bền vững.

Hoa Sen Và Hiệu Ứng Nhũ Kim

- Hoa sen trong nghệ thuật và văn hóa Á Đông thường được biểu tượng hóa là sự thanh cao và cao quý. Khi sử dụng hiệu ứng nhũ kim trên họa tiết hoa sen, nó làm tăng thêm sự sang trọng và giá trị đặc biệt cho hoa sen, thể hiện sự cao quý và tinh tế của biểu tượng này.

- Hoa sen cũng có ý nghĩa tôn vinh và sự thoát tục trong phật giáo và tâm linh. Khi sử dụng hiệu ứng nhũ kim trên hoa sen trong thiết kế, nó có thể tạo ra một ý nghĩa tôn thờ và sự tối cao, thể hiện lòng kính trọng và lòng tin vào cái vĩnh cửu.

- Hiệu ứng nhũ kim làm tăng sự huyền bí và quyền năng của họa tiết hoa sen. Nó giúp tạo ra một khía cạnh nghệ thuật và lấp lánh, thu hút sự chú ý và kích thích tò mò, thể hiện sự nổi bật và sức mạnh của biểu tượng này.

Thông qua cuốn sách bạn nhận được gì:

1/ Khái niệm về Không Diệt Không Sinh:

Tất cả mọi thứ trong thế giới không thể tách rời và không có sự diệt hoặc sinh ra mà chỉ có sự biến đổi liên tục

2/ Thấu hiểu về sự kết nối:

Thông qua việc thấu hiểu sự kết nối giữa con người và thiên nhiên, bạn có thể phát triển tình thương và tôn trọng đối với môi trường và mọi hình thức sống.

3/ Phương pháp Thiền quán:

Tập trung vào hiện tại và tạo ra sự yên bình trong tâm hồn. Thấu hiểu sâu sắc về sự tồn tại và tạo ra một tinh thần bình an.

4/ Sống hài hòa:

Học cách đặt ra những giá trị tinh thần và tận hưởng mỗi khoảnh khắc

5/ Tình thương và sự Nhân ái:

Bằng cách sống với lòng từ bi và chia sẻ tình thương, bạn có thể tạo ra môi trường tích cực và giúp đỡ những người xung quanh

6/ Quản lý xúc cảm:

Học cách quản lý xúc cảm, tránh sự bất an và căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày

7/ Chấp nhận thay đổi:

Thay vì sợ hãi hoặc phản đối thay đổi, bạn có thể học cách đối diện với chúng một cách bình thản

8/ Sự giải thoát:

Hiểu về khái niệm giải thoát khỏi khô đau và ràng buộc tâm trí.

đạo phật hiện đại hóa

đạo phật hiện đại hóa

Đạo Phật Hiện Đại Hóa

Trong những trang sâu sắc của cuốn sách này, Thiền sư tôn kính Thích Nhất Hạnh đã bàn luận về một thách thức vang dội qua thời gian, từ kỷ nguyên khai sinh cho đến từng nhịp đập của ngày nay: sự phát triển của Phật giáo giữa thời hiện đại. Quan điểm sâu sắc của tác giả là: Để Phật giáo soi sáng con đường của cuộc đời, nó phải nắm lấy bản chất của "hiện đại hóa". Chính nhờ sự biến đổi then chốt này của thời cuộc mà Phật giáo có thể bộc lộ những tặng ân thiêng liêng, vĩnh cửu và siêu việt hùng vĩ trong đó. Cuốn sách này là một lời kêu gọi chân thành để diễn giải lại và thổi hồn cuộc sống đương đại vào trí tuệ vượt thời gian của Phật giáo, đảm bảo rằng sự phát quang của Phật pháp sẽ dẫn đường cho chúng ta ngày nay và trong những tháng ngày sắp tới.

Tác giả:

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là bậc danh Tăng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới. Trong suốt cuộc đời hành đạo và hoằng pháp của mình, Thiền sư đã mang lời dạy của đức Bụt đến gần hơn với mọi người thông qua những phương pháp về thực tập chánh niệm, tỉnh thức. Bằng sự dung hòa các truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy, Phật giáo Đại thừa, và các phát kiến của ngành Tâm lý học đương đại phương Tây, Thầy đã thiết lập cách tiếp cận hiện đại đối với thiền. Ngài được vinh danh như một lãnh đạo tinh thần của Phật giáo có sức ảnh hưởng chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma tại phương Tây.

Trích đoạn sách:

Hiện đại hóa đạo Phật đã không phải là thế tục hóa đạo Phật mà còn là bồi dưỡng và phát triển giá trị xuất thế của đạo Phật để đạo Phật có đủ năng lực giác ngộ, đưa đường chỉ lối cho cuộc đời. Hiện đại hóa đạo Phật đòi hỏi một mặt là công trình tu chứng, một mặt là công trình khảo sát về thực trạng của cuộc đời, để thực hiện công cuộc hành đạo đem đạo Phật vào cuộc đời. Công trình trước có tính cách xuất thế, công trình sau có tính cách nhập

thế và giữa hai công trình có những tương quan mật thiết. Phải hiện đại hóa đạo Phật nếu chúng ta muốn đạo Phật có thể đóng góp thiết thực và hữu hiệu vào công cuộc xây dựng xã hội chúng ta.

Hiện đại hóa đạo Phật tức là khai triển những tiềm lực của đạo Phật mà chúng ta biết, như ở trong trường hợp Việt Nam và ở nhiều nước Á châu, là rất phong phú và có thể biến cải một cách tốt đẹp tình trạng hiện thời của đất nước. Tiềm lực ấy sẽ không có tác dụng nào cả nếu không được khai triển. Sự tiêu hoại dần dần các tiềm lực ấy chứng tỏ sự suy đồi của bản chất đạo Phật; hiện đại hóa đạo Phật tức là vừa duy trì vừa phát triển chúng. Nói một cách khác hơn, đạo Phật phải được thường xuyên hiện đại hóa nếu muốn còn là đạo Phật. Nhờ có những cuộc cách mạng giáo lý và giáo chế xuất hiện trong lịch sử mà sinh lực đạo Phật đã được tiếp nối từ thời đại này sang thời đại khác. Những giai đoạn suy trầm nhất trong lịch sử đạo Phật đã được tiếp nối từ thời đại này sang thời đại khác. Những giai đoạn suy trầm nhất trong lịch sử đạo Phật là những giai đoạn thiếu khai triển, thiếu sáng tạo, nói tóm lại, thiếu công trình hiện đại hóa. Hiện đại hóa để được sống mãi, để được linh động mãi, để đừng bị chết khô trong hình thức và khuôn khổ.

Muốn tiêu diệt đạo Phật thì cũng không cần đàn áp, bởi vì có thể càng bị đàn áp sức sống của đạo Phật càng vươn mạnh. Muốn tiêu diệt đạo Phật thì phải tiêu diệt sinh khí đạo Phật. Mà muốn tiêu diệt sinh khí đạo Phật thì chỉ cần khen ngợi, khuyến khích tinh thần ỷ lại, bảo thủ, thói quen ôm ấp hình thức và sợ hãi thay đổi, sợ hãi sáng tạo. Bởi vì bất cứ sự thay đổi hay sáng tạo nào cũng hàm chứa những đớn đau của thời kỳ sinh nở. Trong một bài báo có nhan đề “Nói chuyện về vấn đề đóng góp”, chúng tôi đã có dịp nói rõ rằng chúng tôi tin đạo Phật có thể đóng góp rất nhiều cho hoàn cảnh, nhưng với điều kiện là đạo Phật phải là đạo Phật trước đã. Mà nếu muốn đạo Phật là đạo Phật thì phải để đạo Phật được thường xuyên hiện đại hóa – hiện đại hóa để bản chất đạo Phật được duy trì, phát triển, lưu lộ và thấm sâu vào mọi hình thái của sự sống.

Thực ra muốn biết một tổ chức sinh hoạt nào đó có phải là đạo Phật không thì chỉ cần xem xét giá trị của từ bi, của khoan dung, của phá chấp có thể hiện và lưu lộ trong tổ chức ấy không. Điều đó ai cũng biết và ai cũng có thể thực nghiệm. Khác hơn hết thảy mọi tôn giáo, mọi truyền thống, đạo Phật không phải là một bó giáo điều cứng nhắc; đạo Phật chịu đựng được mọi thử thách và luôn luôn tùy duyên để được thực sự bất biến. Nhờ tinh thần phóng khoáng ấy mà đạo Phật đã lột xác nhiều lần trong lịch sử và đã luôn luôn cố gắng vươn tới để có mặt. Vì thế không có lý do gì mà chúng ta lại sợ hãi sự đau đớn, sợ hãi sự sáng tạo để cứ ngủ yên và chết mòn trong những cái vỏ cứng thiếu sinh khí. Không có lý do gì mà chúng ta để cho rêu mọc và phủ kín một ngôi cổ tháp. Trong tập sách này, chúng tôi sẽ cố gắng trình bày một cách đơn giản những nguyên tắc và những nét đại cương của công cuộc hiện đại hóa đạo Phật, với những đề nghị có tính cách cụ thể và khả hành để mong có thể đóng góp một phần nào cho sự xây dựng một nền Phật giáo hiện đại trong viễn tượng bồi đắp và phát triển nền văn hóa dân tộc và đẩy mạnh những tiến bộ xã hội Việt Nam. Cố nhiên những ý kiến của chúng tôi có thể sẽ bị một số các Phật tử xuất gia và cư sĩ xem là táo bạo hoặc phá hoại. Điều đó tất nhiên là một sự kiện phải xảy ra, cũng như đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, v.v..

Mục lục:

1. Vấn đề hiện đại hóa

2. Những tu viện nhập thế

3. Những nguyên lý làm nền tảng

4. Đạo Phật trong các lĩnh vực sinh hoạt

5. Những dòng tu Tiếp Hiện

tâm tình với đất mẹ (tái bản 2022)

tâm tình với đất mẹ (tái bản 2022)

Trong mỗi khoảnh khắc, Đất Mẹ hiện diện bên trên, bên dưới, xung quanh, thậm chí bên trong bản thân bạn. Đất Mẹ có mặt ở khắp mọi nơi. Có lẽ ta từng nghĩ rằng Địa Cầu chỉ là phần bên dưới chân chúng ta mà thôi. Nhưng thật ra, nước, các đại dương, bầu trời cũng như tất cả mọi thứ xung quanh chúng ta đều khởi phát từ Đất Mẹ. Chúng ta cũng thường quên mất rằng hành tinh chúng ta đang sinh sống đã hiến tặng những thành tố cấu tạo nên cơ thể của ta. Ta có nước trong da thịt, trong xương, tất cả những tế bào vi tế trong cơ thể mình đều bắt nguồn và đều là những thành phần của Đất Mẹ. Quả Địa Cầu không chỉ đơn thuần là môi trường mà chúng ta sinh sống. Chúng ta cũng chính là Đất Mẹ và Đất Mẹ luôn luôn có mặt trong chúng ta.

Với tác phẩm Tâm tình với Đất Mẹ, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã mang đến một cái nhìn đặc biệt về môi trường và trách nhiệm của con người đối với trái đất. Với cái nhìn này Thiền sư đã cho ta thấy vũ trụ là một quần thể có mối liên hệ mật thiết với nhau mà ở đó Thiền sư gọi bằng những cái tên trìu mến là Mẹ Đất, Cha Trời và Dì Trăng.
Tâm tình với Đất Mẹ là sự tổng hợp kỳ diệu giữa Phật học, khoa học, tôn giáo và triết học. Đây là một thông điệp đánh thức ta trở về tiếp xúc với Đất Mẹ, hành tinh xanh đẹp của chúng ta. Đất Mẹ là một nơi nương tựa vô cùng vững chãi cho tất cả chúng ta. Mỗi khi ta lao đao, lận đận, đánh mất mình trong quên lãng, buồn tủi, hận thù, cô đơn và tuyệt vọng, ta có thể trở về tiếp xúc, nương tựa nơi Đất Mẹ để lấy lại sự bình an, phục hồi niềm vui sống và đức tự tin trong ta. Đất Mẹ luôn bảo hộ, nâng đỡ và đón ta trở về.

đạo phật đi vào cuộc đời

đạo phật đi vào cuộc đời

Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời

Suối nguồn phát sinh của đạo Phật là một sự giác ngộ về sự thật của cuộc đời (Tứ diệu đế), vì vậy đạo Phật có tính cách vượt lên trên cuộc đời. Sự vượt lên ở đây là một kết quả tất nhiên của giác ngộ, vì mọi giác ngộ đều đưa tới một sự thức tỉnh và giải phóng. Con người giác ngộ không còn là con người bị sai sử và chìm đắm trong cuộc đời nữa. Con người giác ngộ là con người tự do, vượt ra khỏi những tối tăm, quên lãng và phó mặc của cuộc đời.

Những con người giác ngộ đi vào cuộc đời bao giờ cũng đem theo tâm niệm giải thoát, không tham đắm, không cố chấp. Có như thế ta mới thấy được tính chất của sự vượt lên trong thái độ dấn thân vào cuộc đời của những con người giác ngộ. Tính chất vô trước của hành động là một bằng chứng cụ thể chứng minh cho sự hiện hữu của giác ngộ. Vô trước có nghĩa là không bị dính vào. Cố nhiên con người giác ngộ sẽ không những không bị dính vào tham vọng, quyền hành và lợi danh mà còn không bị dính vào những cố chấp có tính cách tri thức như quan điểm và sự phân biệt nhân ngã nữa. Đó là thái độ tự do, vô tâm, vô trú của các bậc Bồ tát mà kinh Kim Cương Bát Nhã đã diễn tả trong rất nhiều đoạn.

Bàn luận đến đề tài đem đạo Phật đi vào cuộc đời, chúng ta phải ý thức được những điểm trên của giáo lý tức là các nguyên lý vượt lên, dấn thân và vô trước, thì mới có thể tránh khỏi được những sai lạc căn bản.

Ngay cái mệnh đề đạo Phật đi vào cuộc đời cũng đã không được ổn thỏa, bởi vì phân tích nó ta sẽ có cảm tưởng đạo Phật là một cái gì đang ở bên ngoài cuộc đời và vì vậy cần phải đem nó đi vào trong cuộc đời. Sự thực thì không phải như vậy. Đạo Phật đã được phát sinh từ trong lòng của cuộc đời, đã được nuôi dưỡng bởi cuộc đời và đang tồn tại vì cuộc đời.

Đem đạo Phật đi vào cuộc đời có nghĩa là thể hiện những nguyên lý đạo Phật trong sự sống, thể hiện bằng những phương thức phù hợp với thực trạng của cuộc đời để biến cải cuộc đời theo chiều hướng thiện mỹ.

Chừng nào sinh lực của đạo Phật được trông thấy dào dạt trong mọi hình thức của sự sống, chừng đó ta mới có thể nói được rằng đạo Phật đang thật sự hiện hữu trong cuộc đời.

Sinh lực ấy được nhận thức qua những dấu hiệu sau đây mà chúng tôi xin lần lượt trình bày:

1. Sự hiện diện vô hành của đạo đức

2. Sự hiện diện của ngôn ngữ đạo đức

3. Sự hiện diện hữu hành của đạo đức

con đã có đường đi (tái bản 2021)

con đã có đường đi (tái bản 2021)

Con Đã Có Đường Đi

Mọi sinh hoạt của xã hội con người đang đi về hướng toàn cầu hóa. Những giá trị tâm linh và đạo đức nào trong gia sản văn hóa của nhân loại cần được xét nghiệm và nhận diện để chúng ta có thể sử dụng mà hình thành nên một nền đạo đức và tâm linh chung cho cả hành tinh chúng ta? Mỗi truyền thống đạo đức tâm linh đều có những viên ngọc quý có thể đem ra để đóng góp cho một nền tâm linh và đạo đức toàn cầu. Đạo Bụt là một nguồn tuệ giác đã có mặt trên 2500 năm có thể đóng góp được gì? Đó là chủ đề của cuốn sách này.

Bất cứ một nền đạo đức luân lý nào cũng luôn dựa trên nền tảng của một cái thấy sâu sắc về thực tại, thực tại nội tâm cũng như thực tại thế giới. Siêu hình học là nền tảng của đạo đức học. Đạo đức học của đạo Bụt phát sinh từ một suối nguồn tuệ giác mà Bụt Thích Ca và các hành giả kế tiếp đã đạt tới được nhờ kinh nghiệm thiền quán sâu sắc. Nguồn suối tuệ giác ấy được gọi là Chánh kiến (Right View), là sự chứng ngộ. Tuệ giác ấy có khi được gọi là Duyên Sinh, là Tương Tức, là Không, là Vô Tướng, là Bát Nhã, là Bất Nhị, là Trung Đạo, là Vô Ngã... Tuệ giác ấy không phải là những ý niệm, những lý thuyết hình thành bởi tư duy, bởi lý luận mà là những kinh nghiệm trực tiếp về thực tại mà hành giả đạt tới. Chỉ có người ăn xoài mới thực sự chứng nghiệm được hương vị của trái xoài, và kinh nghiệm này không thể trao truyền được cho kẻ khác, những người chưa bao giờ được ăn xoài, bằng ngôn ngữ và ý niệm. Siêu hình học, nếu chỉ là sản phẩm của trí năng, lý luận và kiến thức khái niệm, thì không đủ để làm nền tảng cho một nền luân lý đạo đức có giá trị thực tiễn.

Cuốn sách này trình bày và giới thiệu nền tuệ giác ấy cũng như những hình thái đẹp đẽ của nền đạo đức luân lý được phát nguồn từ nền tuệ giác ấy. Nếu biết cách tu tập và quán chiếu thì bạn đọc cũng có thể nương vào đó để đạt tới kinh nghiệm tâm linh và nguồn suối tuệ giác ấy một cách trực tiếp, như người không mãn ý với những ý niệm về hương vị của trái xoài mà muốn trực tiếp ăn xoài.

Trong ba tháng An Cư Kiết Đông vừa qua tại Đạo Tràng Mai Thôn, ba trăm hành giả đã cùng thiền tọa, thiền hành, chiêm nghiệm và pháp đàm về đề tài “Con Đường Của Bụt, những đóng góp của đạo Bụt cho một nền đạo đức toàn cầu.” Cuốn sách này ghi chép lại những bài pháp thoại đã được nói trong ba tháng an cư ấy. Đây là một tư liệu mà bạn đọc có thể sử dụng để quán chiếu và đi tới một cái thấy thấu triệt về thực tại bản thân và thế giới, cái thấy ấy có thể giúp cho chúng ta thấy được con đường mà nhân loại phải đi để có thể đưa xã hội và hành tinh ra khỏi tình trạng bạo động và hiểm nguy hiện tại. Nếu không có chánh kiến, cái thấy thấu triệt ấy, thì ta sẽ không có khả năng thực tập chánh tư duy, chánh ngữ và chánh nghiệp để có thể vượt thắng những khó khăn của bản thân và thế giới. Chánh kiến có khả năng hướng dẫn được cho khoa học và kỹ thuật để khoa học và kỹ thuật có thể giúp chúng ta chuyển ngược lại tình trạng hiện thời.

Siêu hình học mà làm nền tảng được cho đạo đức học thì cũng có thể được gọi là siêu hình học ứng dụng. Tuệ giác Bát nhã, tuệ giác Trung đạo, tuệ giác Tương tức, tuệ giác Bất nhị và Vô tướng của đạo Bụt nếu được đem ra áp dụng trong nếp sống hàng ngày dưới hình thức Bát chánh đạo sẽ có công năng phá bỏ được cuồng tín, cố chấp, kỳ thị, cực đoan, chia rẽ và hận thù. Trong tuệ giác Tương tức, ta với thế giới không phải là hai thực tại tách biệt: ta có trong thế giới, và thế giới có trong ta, ta là thế giới, thế giới là ta. Không có chủ thể nhận thức thì không có đối tượng nhận thức, không có đối tượng nhận thức thì không có chủ thể nhận thức. Cái nhìn bất nhị ấy khoa học hiện đại đã bắt đầu hé thấy. Vì vậy cho nên nói tới đạo đức học Phật giáo, ta không thể nào không tham cứu về tuệ giác Vô ngã và Bất nhị.

Năm giới tân tu mà bạn đọc tìm thấy trong sách này là hoa trái của thiền tập, được dâng hiến như văn bản của cái thấy đạo Bụt về một nền đạo đức toàn cầu. Chúng ta, người Phật tử, muốn cống hiến và đề nghị những gì đẹp đẽ nhất của truyền thống đạo Bụt cho nền đạo đức toàn cầu ấy. Chúng ta cũng thỉnh mời các truyền thống khác trên thế giới đề nghị và cống hiến những gì quý nhất và đẹp nhất của họ. Ước mong rằng các bạn độc giả sau khi đọc xong sách này có cơ duyên tiếp tục quán chiếu và trao đổi để chúng ta có thể đóng góp được phần tối đa của chúng ta với tư cách là những người con Bụt.

bộ thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới - tập 1: cẩm nang hạnh phúc (tái bản)

bộ thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới - tập 1: cẩm nang hạnh phúc (tái bản)

Thầy Cô Giáo Hạnh Phúc Sẽ Thay Đổi Thế Giới - Tập 1: Cẩm Nang Hạnh Phúc (Tái Bản)

“Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới” – bộ sách bạn đang cầm trên tay là một món quà đặc biệt quan trọng – hay nói cách khác là một sự trao truyền – từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh trao tặng vào giai đoạn chín muồi của một nhân cách vĩ đại. Bạn sẽ thấy rằng nó là kết tinh tình thương sâu sắc của Thiền sư đối với những người trẻ và sự mong mỏi không ngừng về một nền giáo dục bồi dưỡng tài và đức cho các thế hệ mai sau. Ở mỗi trang, bạn có thể cảm được sự tôn vinh dành cho những con người đang thực hiện sứ mệnh này, thường là âm thầm không ai biết, và khối lượng công việc khổng lồ mà họ gánh vác từng ngày nhằm phục vụ cho công cuộc kiến tạo, chuyển hóa và hàn gắn thế giới của chúng ta từ dưới lên, từ thế hệ này sang thế hệ khác – đó là những người thầy, người cô. Đây cũng đồng thời là tác phẩm được kết tinh từ sự cộng tác đầy cảm hứng với giáo sư Katherine Weare, một nhà giáo dục và cũng là một giáo viên về chánh niệm, người đã có nhiều năm nghiên cứu những tác động của thực tập chánh niệm trong môi trường học đường, và đội ngũ các cây bút cố vấn, những học trò lớn của Thiền sư từ Làng Mai. Cùng nhau họ đã thiết kế một cẩm nang thiền tập mang tính đa diện và rất dễ sử dụng để giúp các thầy cô giáo có thể đem chánh niệm vào lớp học cũng như vào đời sống của chính mình bằng nhiều hình thức.

Bộ sách gồm 2 cuốn: Tập 1 “Cẩm nang hạnh phúc”, tập 2 "Đi như một dòng sông”

Trong cuốn “Cẩm nang hạnh phúc” thầy Thích Nhất Hạnh và tác giả Katherine Weare sẽ chia sẻ chi tiết về chánh niệm và tỉnh thức. Bởi thế giới đang thay đổi quá nhanh đến nỗi chúng ta không thực sự biết được nền tảng tri thức và kỹ năng nào sẽ là quan trọng nhất mà các thế hệ kế cận cần phải trau dồi. Nhưng điều mà chúng ta có thể biết chắc là muốn sáng tạo, yêu nghề, thích nghi với thời đại kỹ thuật số và học hỏi suốt đời thì người trẻ ở lứa tuổi nào cũng cần phải phát triển kỹ năng sống với giây phút hiện tại. Điều này bao gồm kỹ năng làm bạn với chính mình, tin tưởng những trải nghiệm trong nội tâm và học cách làm chủ môi trường bên trong, gồm thân và tâm của mình, cũng như biết cách thích nghi với môi trường học tập bên ngoài khi tương tác với những người khác.

Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới - Đánh thức khả năng sáng tạo và trí tưởng tượng của bản thân trong suốt cuộc đời theo cách thức này là một yếu tố quan trọng dẫn tới thành công và hạnh phúc như tiêu đề của bộ sách. Một trong những nguyên tắc chính ở đây là các thầy cô giáo cần thực tập c

hánh niệm trong đời sống của chính mình trước khi có thể đưa nó vào lớp học một cách hiệu quả. Nếu bạn làm nghề giáo và mới biết đến phương pháp chánh niệm, bộ sách này sẽ hướng dẫn hết sức chi tiết cách bạn thực tập cho chính mình, cũng như cách bạn có thể đưa nó vào lớp học theo cách riêng của mình để giúp học sinh phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần, biết cách chăm sóc cảm xúc và có niềm vui trong khi học. Cần lưu ý rằng không có một phương pháp nào là phù hợp cho mọi hoàn cảnh. Cái hay của cách nhìn này là cho bạn một loạt các lựa chọn để thử nghiệm và trên hết là nhắc bạn nhớ rằng chính sự sáng tạo của riêng bạn, được nuôi dưỡng bởi sự thực tập chánh niệm, sẽ mang đến muôn vàn những cơ hội mới và đầy thú vị. Nói một cách thực tế thì học trò của bạn sẽ là người giúp khơi mở nguồn tuệ giác đó trong bạn. Các em chính là những người thầy chánh niệm vĩ đại nhất của bạn. Điểm hay của phương thức tiếp cận này là nó có thể bắt nguồn từ tình yêu nghề và tấm lòng mong mỏi học trò tiến bộ, được ấp ủ và truyền đạt bởi chính trực giác và kinh nghiệm thực tiễn của bạn; tất cả những điều này đều dựa vào công phu thực tập trong từng thời khắc của bạn. Theo như tôi nghiệm thấy, những băn khoăn, học hỏi, quán chiếu cứ lớn lên không ngừng trên mảnh đất nuôi dưỡng ấy.

trồng một nụ cười - cùng trẻ thực hành chánh niệm

trồng một nụ cười - cùng trẻ thực hành chánh niệm

Hiện nay, vai trò của chánh niệm trong giáo dục ngày càng được công nhận một cách rộng rãi. Sự thực tập chánh niệm giúp học sinh tăng cường khả năng chú tâm, ý thức và làm chủ được các hoạt động của thân, điều phục các cảm xúc mạnh cũng như phát triển các kỹ năng giao tiếp, ứng xử trong mối liên hệ giữa mình với mọi người. Nhưng quan trọng hơn hết, chánh niệm giúp các em phát triển một cách toàn diện và lành mạnh, nuôi lớn niềm vui, sự bình an và tự tin nơi chính mình, thông qua những phương pháp thực tập làm lắng dịu căng thẳng, lo lắng và bạo động trong tự thân.

Thực tế là hệ thống giáo dục của chúng ta thường đặt trọng tâm vào thành tích thi cử mà chưa chú trọng đầy đủ đến việc dạy cho các em cách chăm sóc những cảm xúc của mình, cũng như các phép ứng xử cần thiết khi giao tiếp với xã hội. Lẽ tất nhiên là trường học cần trang bị cho các em những kỹ năng và kiến thức cần thiết, nhưng việc giúp các em có thêm sức mạnh và sự vững chãi khi đối diện với những cơn bão cảm xúc, cũng như khả năng chấp nhận và bao dung trước những khác biệt trong nhận thức, lối sống của con người trong xã hội cũng quan trọng không kém. Sự thực tập chánh niệm có công năng rất lớn trong việc giúp các em phát triển những kỹ năng chế tác và nuôi lớn bình an trong tự thân, góp phần vào sự bình an của môi trường xung quanh mình.

Cách đây một vài năm, hiệu trưởng của trường nữ sinh Welham (Welham Girls’ School) ở Dehra Dun, Ấn Độ có mời tôi chia sẻ một vài phương pháp thực tập chánh niệm với học sinh của trường nhằm giúp các em bớt căng thẳng trong các kỳ thi. Trong buổi chia sẻ đó, tôi nhận ra rằng những bài thực tập đơn giản về hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm đã có thể giúp các em lấy lại được sự bình an, lắng dịu và bớt lo lắng.

Theo lời mời của hiệu trưởng trường American Embassy School tại Delhi, tôi cũng đã hướng dẫn một khóa học về chánh niệm cho các giáo viên trong mười tuần. Đến bây giờ, những thầy cô giáo đã từng tham gia khóa học vẫn tiếp tục gặp nhau mỗi tuần một lần để chia sẻ sự thực tập. Dù khá bận rộn, các thầy cô giáo vẫn ưu tiên dành thời gian để đến và thực tập với nhau, bởi vì họ nhận ra sự thực tập chánh niệm có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với hạnh phúc của bản thân cũng như của các em học sinh. Cheryl Perkins, một giáo viên của trường American Embassy School với hơn ba mươi năm kinh nghiệm giảng dạy đã chia sẻ: “Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi sử dụng một công cụ giảng dạy nào có khả năng làm cho học sinh trong lớp học trở nên lắng dịu như tiếng chuông chánh niệm.”
Tôi đến Làng Mai lần đầu tiên vào năm 1989 và từ đó đến nay tôi vẫn thường xuyên đến Làng tu học. Mùa hè nào, Thiền sư Nhất Hạnh cũng tổ chức khóa tu cho các gia đình. Trong những khóa tu này, thiền sinh – đủ các độ tuổi – cùng nhau thực tập trở về với chính mình để ý thức rõ mình là ai, mình đang làm gì, nói gì, đang có những cảm xúc hay suy nghĩ gì, ý thức về những gì đang diễn ra bên trong và xung quanh mình. Cuốn sách này chính là hoa trái tu học của tứ chúng Làng Mai, được hình thành dựa trên kinh nghiệm thực tập cùng với trẻ em trong mấy chục năm qua.
Trong cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh cùng quý thầy, quý sư cô Làng Mai và nhiều cư sĩ đã hiến tặng tuệ giác của mình và đóng góp những câu chuyện, nhữngphương pháp thực tập cụ thể mà các bậc phụ huynh, thầy cô giáo và bất kỳ ai làm việc trong lĩnh vực có liên quan đến trẻ em đều có thể áp dụng. Những phương pháp thực tập vô cùng hữu ích này có thể được áp dụng trong gia đình, trường học, các đoàn thể địa phương một cách linh hoạt, sao cho nó thực sự có ý nghĩa và tạo hứng thú cho trẻ em.
Cuốn sách này là một cuốn cẩm nang dành cho tất cả những ai muốn thực tập và chia sẻ chánh niệm với trẻ em. Để có thể chia sẻ từ kinh nghiệm của chính mình, chúng ta cần thực tập trước tiên. Nếu chúng ta áp dụng những phương pháp thực tập trong cuốn sách này với gia đình và trẻ em trong cộng đồng nơi chúng ta ở thì cả trẻ em và người lớn đều được hưởng năng lượng bình an, tươi vui và hòa điệu mà sự thực tập mang lại.
Mỗi cá nhân đều có ảnh hưởng đến những thành viên khác trong cộng đồng. Vì vậy, khi có một vài nhóm nhỏ thực tập chánh niệm trong trường học hay trong cộng đồng, năng lượng bình an từ những nhóm người này sẽ có tác động lan tỏa rất lớn. Sự gắn kết, hòa điệu giữa con người với nhau cũng như với môi trường thiên nhiên xung quanh nhờ đó mà lớn dần lên. Chính trong bầu không khí an lành này, trẻ em mới có thể vui vẻ, thoải mái phát huy mọi tài năng vốn có của mình.
– Shantum Seth, một giáo thọ cư sĩ thực tập theo truyền thống Làng Mai,
viết tại Delhi, Ấn Độ, năm 2010

TRÍCH ĐOẠN SÁCH:

Lắng trong

Trước khi thành lập Làng Mai, tôi đã sống ở Phương Vân Am cách Paris một tiếng rưỡi lái xe. Phương Vân Am nằm trên một ngọn đồi, xung quanh là rừng cây. Một hôm, có hai cha con người Việt đến Phương Vân Am. Người cha muốn nhờ tôi chăm sóc đứa con gái của ông, bé Thanh Thủy, để ông có thể lên Paris lo giấy tờ và kiếm việc làm. Bé Thanh Thủy khi ấy gần năm tuổi.

Tối nào Thanh Thủy cũng thấy tôi ngồi. Tôi bảo bé là tôi "ngồi thiền" và tôi không hề nói cho bé biết ngồi thiền là gì và ngồi như thế để làm gì. Mỗi tối, khi thấy tôi rửa mặt, mặc áo tràng và đi thắp một cây nhang cho thơm thiền phòng là nó biết tôi sắp đi "ngồi thiền". Nó cũng biết là đã đến giờ nó phải đi đánh răng, thay áo và leo lên chỗ nằm mà không nói chuyện.

Một ngày nọ, Thanh Thủy và mấy em bé khác chơi với nhau trên khu đồi phía sau nhà. Chơi được một lúc, chúng đến xin tôi nước uống. Tôi đi tìm chai nước táo cuối cùng còn lại và đem rót vào cho mỗi đứa một ly đầy. Ly chót là của Thanh Thủy. Ly này lợn cợn xác táo, không trong như ba ly trước. Thanh Thủy phụng phịu chê, không uống, rồi lại chạy lên đồi chơi.

Chừng một giờ sau, bé quay lại tìm nước uống. Tôi chỉ lên bàn, bảo: “Cháu uống ly nước táo này đi”. Thủy ngoảnh lại nhìn. Ly nước táo bấy giờ trong vắt không còn một tí lợn cợn nào nữa, trông thật ngon lành. Nó tới gần và đưa hai tay nâng ly nước táo lên uống. Uống được chừng một phần ba ly, Thủy đặt ly xuống và ngước mắt nhìn tôi: "Có phải đây là một ly nước táo mới không thưa ông?" Tôi trả lời: "Không, ly nước táo hồi nãy đó. Nó ngồi yên một lúc lâu cho nên trở thành trong vắt và ngon lành như vậy đó cháu." Thủy nhìn lại ly nước táo: "Ngon quá ông ơi. Có phải ly nước táo bắt chước ông ngồi thiền không hả ông?” Tôi bật cười vỗ nhẹ lên đầu nó. Có lẽ nói rằng tôi đã bắt chước ly nước táo mà ngồi thiền thì đúng hơn.

Chắc rằng trong cái đầu tí hon của nó, bé Thủy nghĩ rằng ly nước táo ngồi yên một hồi lâu là để cho nó lắng trở lại, và ông của nó ngồi yên một hồi lâu chắc cũng là để cho lắng trong, cho khỏe khoắn như ly nước táo. "Có phải ly nước táo bắt chước ông ngồi thiền không hả ông?". Tôi nghĩ bé Thủy chưa đầy bốn tuổi rưỡi mà đã hiểu thế nào là ngồi thiền mà không cần ai giải thích gì cho nó.

Ly nước táo ngồi lâu thì lắng trong. Theo cùng một định luật, ngồi lâu thì ta cũng lắng trong. Nếu ta biết cách ngồi, biết cách điều chỉnh tư thế ngồi của mình cho thật vững chãi, có mặt với hơi thở vào và hơi thở ra, thì sau một lúc, tâm ta sẽ trở nên an tĩnh và lắng trong.

Chúng ta phải học cách chăm sóc chính mình trong đời sống hàng ngày, trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, trong lúc ăn hoặc đánh răng. Con người chúng ta được tạo thành bởi năm yếu tố: hình hài, cảm xúc, tri giác, tâm hành và nhận thức. Năm yếu tố này là lãnh thổ vô cùng rộng lớn của chúng ta. Ta chính là vị quốc vương trên lãnh thổ ấy. Ta phải biết trở về và chăm sóc cho lãnh thổ của mình. Chánh niệm giúp chúng ta làm được việc ấy. Ví dụ như khi có một vùng nào đó trên cơ thể bị căng thẳng hay đau nhức, việc trước tiên ta nên làm là trở về và chăm sóc cho vùng đang bị thương tổn ấy. Ta hãy dành cho mình những giây phút lắng yên, trở về với hơi thở và thầm đọc:

Thở vào, tôi ý thức về toàn thân tôi

Thở ra, tôi buông thư toàn thân (buông bỏ hết những căng thẳng trong thân)

Khi đã biết cách chăm sóc cho thân, ta sẽ biết cách chăm sóc những cảm xúc trong ta. Với năng lượng chánh niệm, ta có thể làm phát khởi niềm vui và hạnh phúc trong ta; và khi một cảm xúc mạnh biểu hiện, ta có thể chăm sóc cho cảm xúc ấy. Ta có thể theo dõi hơi thở trong khi đọc thầm:

Thở vào, tôi ý thức về cảm xúc buồn đau trong tôi

Thở ra, tôi ôm lấy cảm xúc đó với tất cả sự dịu dàng.

Chúng ta không khỏa lấp khổ đau bằng cách tiêu thụ. Nhiều người trong chúng ta tìm cách trốn chạy khổ đau bằng cách đắm chìm trong phim ảnh, mạng lưới toàn cầu, rượu bia, sách báo, ăn uống, mua sắm, chuyện trò… Nhưng càng trốn chạy thì ta càng làm cho tình trạng khó khăn hơn mà thôi.

Bụt dạy rằng không có cái gì có thể sống sót nếu không có thức ăn. Sở dĩ niềm đau, nỗi sợ trong ta còn đó là vì ta cứ cho nó thức ăn. Một khi ta biết nhận diện và ôm ấp niềm đau, nỗi sợ thì nó lắng xuống. Nếu tiếp tục nhìn sâu, chúng ta sẽ nhận ra gốc rễ đồng thời thấy được những thức ăn nào ta đã cung cấp cho những niềm đau, nỗi sợ ấy mỗi ngày.

Nếu chúng ta khổ sở vì bị trầm cảm, chứng tỏ là ta đã sống, đã tiêu thụ như thế nào để đưa tới tình trạng trầm cảm. Bụt dạy rằng nếu chúng ta có thể nhìn sâu vào khổ đau của mình và nhận diện được nguồn thực phẩm nuôi dưỡng khổ đau, thì chúng ta đang đi trên con đường giải thoát.

CÂU HỎI VỀ MUỖI

Câu hỏi: Kính bạch Sư Ông, con hay bị muỗi cắn và con không muốn muỗi cắn con nữa. Mỗi ngày con có thể giết vài con muỗi được không ạ?

Sư Ông Làng Mai: Con muốn giết bao nhiêu con muỗi?

Bé: Chắc là mỗi ngày một con ạ.

Sư Ông Làng Mai: Con có nghĩ như vậy là đã đủ rồi không?

Bé: Dạ, đủ ạ.

Sư Ông Làng Mai: Hồi nhỏ Sư Ông cũng từng đặt ra câu hỏi như vậy. Sau này, Sư Ông phát hiện ra rằng loài muỗi cũng cần thức ăn để sống. Muỗi luôn cố gắng tìm kiếm thức ăn, cũng như loài người chúng ta vậy. Ta tìm kiếm thức ăn khi đói và đó là một điều rất tự nhiên.

Sư Ông nghĩ ta có nhiều cách để bảo vệ mình khỏi bị muỗi chích. Ở Việt Nam, ai cũng thường giăng mùng ngủ mỗi đêm để tránh muỗi. Nếu không có mùng thì chắc họ phải thức cả đêm để đập muỗi. Không chỉ một vài con, vì sau khi con giết một con thì con khác sẽ đến. Con có thể thức trắng đêm chỉ để đập muỗi. Vì vậy, giết muỗi không phải là giải pháp. Sư Ông nghĩ ở Làng Mai có một số mùng. Con chỉ cần hỏi các thầy, các sư cô để mượn một cái, như vậy con có thể cứu được mạng sống nhỏ nhoi của mấy con muỗi.

Lâu lâu Sư Ông thấy một con muỗi đáp xuống và Sư Ông tạo ra một trận bão nhỏ bằng cách phẩy nhẹ cánh tay cho nó bay đi. Sư Ông làm vậy mà không có chút bực bội nào. Sư Ông chỉ không cho nó đốt mình thôi.

fear - sợ hãi

fear - sợ hãi

Hầu hết chúng ta ai cũng đã trải qua những giây phút hạnh phúc lẫn khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên có nhiều người ngay lúc đang vui sướng nhất mà lòng vẫn trĩu nặng lo sợ, sợ ngày vui sẽ qua mau, sợ không như mong cầu, sợ phải xa cách người thương và một nỗi sợ lớn nhất, sợ thân xác mình sẽ tàn hoại. Cho nên ngay lúc biết bao điều kiện của hạnh phúc có đó niềm vui vẫn không trọn vẹn.

Chúng ta cứ nghĩ rằng để được hạnh phúc thì phải tránh né hay quên đi lo sợ. Chúng ta không mấy thoải mái khi phải nghĩ đến những gì đã làm cho ta lo sợ, rồi chúng ta chối bỏ: “Thôi! Thôi! Tôi không muốn nghĩ tới chuyện đó!” Chúng ta nhắm mắt làm ngơ nhưng lo sợ vẫn còn đó trong ta.

Cách duy nhất để bớt đi lo sợ và thật sự hạnh phúc là nhận diện lo sợ và quán chiếu gốc rễ của lo sợ. Thay vì tránh né, ta sử dụng khả năng tỉnh giác và quán sát tinh tường.

Chúng ta lo sợ những gì ngoài tầm kiểm soát của ta. Chúng ta sợ bệnh, sợ già, sợ mất đi những gì mà ta trân quý. Chúng ta cố ôm giữ địa vị, tài vật và người thương. Nhưng ôm giữ không giúp bớt lo sợ. Trước sau gì sẽ có một ngày chúng ta phải buông bỏ tất cả. Chúng ta không thể mang địa vị, tài vật, người ta thương theo chúng ta mãi.

Chúng ta có thể nghĩ rằng nếu làm ngơ lo sợ thì lo sợ sẽ tan biến. Nhưng nếu cứ làm ngơ, cứ chôn chặt lo sợ vào lòng thì lo sợ vẫn ở đó và luôn làm ta căng thẳng. Chúng ta cảm thấy bất lực. Nhưng chúng ta có khả năng quán chiếu, nhìn sâu vào lo sợ và từ đó, lo sợ không còn khống chế được ta. Chúng ta có khả năng chuyển hóa lo sợ. Thực tập sống tỉnh thức từng giây phút hiện tại, ta gọi đó là CHÁNH NIỆM, sẽ giúp ta can đảm đối diện lo sợ và không còn bị lo sợ bức bách. Chánh niệm có nghĩa là nhìn sâu, là ý thức “tự tính tương tức” (true nature of interbeing) của vạn vật và ý thức rằng không có gì sẽ mất đi.

Tất cả chúng ta ai cũng từng lo sợ, nhưng nếu chúng ta biết nhìn sâu vào lo sợ thì ta có thể giải tỏa lo sợ và tìm lại nguồn vui. Lo sợ khiến chúng ta chú tâm về quá khứ hoặc lo lắng cho tương lai. Nếu chấp nhận lo sợ thì ta khám phá ra rằng ngay lúc này, hôm nay đây ta còn sống, cơ thể ta đang hoạt động diệu kỳ, mắt ta đang thấy được trời xanh, tai ta còn nghe được tiếng nói của người ta thương.

Bước thứ nhất của sự quán chiếu lo sợ là nhận diện mà không phán xét. Hãy nhận diện với tâm bình thản rằng lo sợ đang có đó trong ta, như thế cũng đủ để vơi bớt lo sợ rất nhiều. Tiếp theo, khi lo sợ đã lắng dịu, chúng ta ôm ấp niềm lo nỗi sợ một cách êm dịu và nhìn sâu vào nguồn gốc của lo sợ. Hiểu được nguồn gốc của lo sợ, ta buông bỏ được lo sợ. Hãy tìm hiểu xem lo sợ là do nguyên nhân hiện tại hay là do nguyên nhân từ xa xưa, từ khi ta còn nhỏ, mà ta đã ôm chặt trong lòng cho tới bây giờ? Khi chúng ta sử dụng chánh niệm để đối diện lo sợ thì chúng ta sẽ ý thức rằng chúng ta đang sống, rằng chúng ta còn có những gì ta trân quý và yêu thích. Nếu không phí thì giờ đè nén, bận tâm vì lo sợ, ta sẽ có thì giờ vui hưởng nắng ấm, trời trong, gió lành. Nếu quán chiếu sâu sắc và tỏ tường lo sợ thì ta sẽ khám phá ra rằng ta có thể sống một cuộc đời đáng sống.

Nỗi lo sợ lớn nhất là sợ rằng khi chết ta không còn là gì nữa. Để thực sự giải thoát khỏi nỗi sợ đó, ta phải nhìn sâu dưới cái nhìn bản môn (ultimate dimension) để thấy được bản chất không sinh không diệt của ta. Phải từ bỏ định kiến rằng ta chỉ có một thân xác này và nó sẽ tàn hoại khi ta chết. Hiểu rằng ta không chỉ là một thân xác, rằng ta không đến từ hư không và sẽ tan biến vào hư không. Hiểu như thế ta sẽ giải thoát khỏi lo sợ.

Đức Bụt là một con người như tất cả chúng ta. Ngài cũng đã từng lo sợ nhưng ngài thường xuyên thực tập chánh niệm và quán chiếu sâu sắc cho nên ngài đã bình thản khi đối diện lo sợ. Kinh chép rằng một hôm Bụt đang đi thì Angulimala, một tên giết người khét tiếng đuổi theo ngài và hô lớn bảo ngài dừng lại nhưng Bụt vẫn tiếp tục chậm rãi bình thản bước. Angulimala đuổi kịp Bụt và lớn tiếng hỏi tại sao ngài không chịu dừng lại. Đức Bụt trả lời: “Angulimala, ta đã dừng lại từ lâu, chỉ có ngươi là không dừng lại”. Và Bụt giải thích tiếp: “Ta đã dừng những hành động gây đau khổ. Tất cả các loài chúng sinh đều ham sống, sợ chết. Chúng ta phải nuôi dưỡng lòng thương và bảo vệ sự sống của mọi loài.” Angulimala tỉnh ngộ và xin Bụt giảng tiếp. Cuối cùng, Angulimala thề sẽ không bao giờ giết chóc, bạo ngược và xin Bụt xuất gia.

Tại sao Đức Thế Tôn có thể bình tĩnh trước một tên giết người? Đây là một câu chuyện hiếm có nhưng tất cả chúng ta hằng ngày đều đã đối diện với hết lo sợ này đến lo sợ khác. Thực tập chánh niệm mỗi ngày có thể giúp ích rất nhiều.

Thái Hà Books trân trọng giới thiệu tới bạn đọc cuốn sách "Fear - sợ hãi" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, với hơi thở, với tỉnh thức, chúng ta có thể đối xử với bất cứ điều gì xảy đến cho ta, để chúng ta cùng nhận diện không sợ hãi không chỉ là thói quen tốt mà còn là một niềm vui thâm diệu. Mỗi khi tâm ta không có sợ hãi, ta được tự do. Không ai có thể cho ta sự không sợ hãi. Ngay khi có đức Bụt ngồi đó bên cạnh, ngài cũng không thể cho bạn sự không sợ hãi. Nếu bạn tập được thói quen chánh niệm thì khi gặp khó khăn, bạn sẽ biết là bạn phải làm gì.

MỤC LỤC:

Không sợ hãi

Một thời đã qua

Nỗi sợ ban sơ

Hòa giải với quá khứ

Giải tỏa nỗi sợ tương lai

Không đến, không đi

Hiến tặng không sợ hãi

Sức mạnh của chánh niệm

Thực tập dừng lại

Bình yên trong cơn bão

Chuyển hóa nỗi sợ xung quanh ta

Bầu trời xanh trên đám mây

Biến nỗi sợ thành tình yêu

Đối nghịch của sợ hãi

Thực tập để giải tỏa sợ hãi khỏi cơ thể và cảm thọ

Chuyển hóa gốc rễ sợ hãi trong tâm

Thư giãn toàn thân để chuyển hóa sợ hãi và căng thẳng

Niệm tâm từ: Nguyện cho mọi người không sợ hãi

Năm phép thực tập chánh niệm (Năm giới)

Năm lời phát nguyện

bộ thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới - tập 2 - đi như một dòng sông (tái bản 2021)

bộ thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới - tập 2 - đi như một dòng sông (tái bản 2021)

“Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới” - bộ sách bạn đang cầm trên tay là một món quà đặc biệt quan trọng - hay nói cách khác là một sự trao truyền - từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh trao tặng vào giai đoạn chín muồi của một nhân cách vĩ đại. Bạn sẽ thấy rằng nó là kết tinh tình thương sâu sắc của Thiền sư đối với những người trẻ và sự mong mỏi không ngừng về một nền giáo dục bồi dưỡng tài và đức cho các thế hệ mai sau. Ở mỗi trang, bạn có thể cảm được sự tôn vinh dành cho những con người đang thực hiện sứ mệnh này, thường là âm thầm không ai biết, và khối lượng công việc khổng lồ mà họ gánh vác từng ngày nhằm phục vụ cho công cuộc kiến tạo, chuyển hóa và hàn gắn thế giới của chúng ta từ dưới lên, từ thế hệ này sang thế hệ khác - đó là những người thầy, người cô. Đây cũng đồng thời là tác phẩm được kết tinh từ sự cộng tác đầy cảm hứng với giáo sư Katherine Weare, một nhà giáo dục và cũng là một giáo viên về chánh niệm, người đã có nhiều năm nghiên cứu những tác động của thực tập chánh niệm trong môi trường học đường, và đội ngũ các cây bút cố vấn, những học trò lớn của Thiền sư từ Làng Mai. Cùng nhau họ đã thiết kế một cẩm nang thiền tập mang tính đa diện và rất dễ sử dụng để giúp các thầy cô giáo có thể đem chánh niệm vào lớp học cũng như vào đời sống của chính mình bằng nhiều hình thức.

Bộ sách gồm 2 cuốn: Tập 1 “Cẩm nang hạnh phúc”, tập 2 “Đi như một dòng sông”

Thực tập chánh niệm có thể giúp người học ở mọi lứa tuổi điều chỉnh công cụ học tập của mình. Điều đó có nghĩa là toàn bộ con người của họ - cơ thể, tâm trí, trái tim và não bộ cũng như các mối quan hệ giữa họ với tư cách là những người học, vì vậy khía cạnh xã hội/môi trường cũng rất quan trọng để đạt kết quả học hỏi và tìm tòi tốt nhất. Điều cốt yếu là phải nuôi dưỡng chính khả năng tập trung chú ý. Thầy cô cần các em tập trung và tìm tòi với sự sáng suốt để thấy được cái gì là quan trọng nhất. Việc chú trọng phát triển khả năng này trở thành một kỹ năng là điều thật sự hữu ích. Kỹ năng này có thể khơi dậy và duy trì trí tò mò cùng niềm đam mê học hỏi suốt đời, cũng như giúp cho người học nắm bắt một cách hiệu quả và hiểu sâu bất cứ bài học cụ thể nào. Ngày càng có nhiều giáo viên trên khắp thế giới nhận thấy điều này… Vì sao không dạy các em làm thế nào để tập trung và lắng nghe sâu, thay vì chỉ đòi hỏi các em phải tập trung như thường thấy trong lớp học khi bản thân các thầy cô lại bị căng thẳng quá mức? Phương pháp thực tập chánh niệm được đưa ra trong bộ sách này là con đường phát triển khả năng đó một cách tự nhiên.

Điều cốt yếu của sự thực tập chánh niệm là sự chú tâm, nhận diện, tìm tòi, khám phá và làm phát khởi cái thấy sâu sắc bằng sự có mặt cẩn trọng, đầy tình thương. Thực tập lắng nghe và nhìn sâu gắn liền với việc học cách tiếp nhận những tri giác và kinh nghiệm của bản thân. Những hoạt động này khơi dậy trí tưởng tượng và óc sáng tạo, giúp chúng ta lột bỏ những lớp vỏ bên ngoài và làm hiển lộ những gì đang thực sự diễn ra ở bên dưới. Đi đôi với các kỹ năng xã hội thiết yếu được trau dồi trong quá trình thực tập chánh niệm, sự thực tập lắng nghe và nhìn sâu giúp chúng ta có thể mở lòng chia sẻ cả những giây phút đầy tuệ giác cũng như những giây phút khó khăn với các đồng nghiệp hoặc học sinh của mình.

Tỉnh thức (chánh niệm) là một khả năng tự nhiên của con người mà trong môi trường giáo dục có lẽ chưa được chú trọng bằng khả năng tư duy. Song có thể thấy sự kết hợp của hai khả năng này giúp người học phát triển vượt trội so với việc chỉ tập trung rèn luyện tư duy đơn thuần. Sự tỉnh thức lớn hơn nhiều so với suy nghĩ, bởi nó chứa đựng suy nghĩ, nhận ra được đó là suy nghĩ chứ không phải sự thật, và vì vậy giúp ta phân biệt được xem thử điều đó có đúng, có hoàn chỉnh, có chính xác hay chưa và có liên quan tới hay là có vẻ mơ hồ đối với vấn đề đang được bàn đến. Đây là một kỹ năng quan trọng đối với việc phát triển tư duy phản biện. Thú vị hơn nữa, nó giúp ta trau dồi khả năng tư duy về mặt cảm xúc, qua đó có thể điều chỉnh cảm xúc và những phản ứng liên quan một cách hiệu quả hơn. Khi tư duy được bổ sung bởi sự tỉnh thức, tư duy sẽ trở nên lớn mạnh và sắc bén hơn, giúp ta tự tin hơn về điều ta biết cũng như nhận ra được những gì ta chưa biết (hy vọng là như vậy), vốn cũng là lĩnh vực quan trọng không kém trong giáo dục, sáng tạo và đời sống.

combo sách con đường chuyển hoá + không diệt không sinh đừng sợ hãi (bộ 2 cuốn)

combo sách con đường chuyển hoá + không diệt không sinh đừng sợ hãi (bộ 2 cuốn)

Combo Sách Con Đường Chuyển Hoá + Không Diệt Không Sinh Đừng Sợ Hãi (Bộ 2 Cuốn)

1. Con Đường Chuyển Hoá - Sa Môn Thích Pháp Hòa

NỘI DUNG CHÍNH

Sau khi quyển sách đầu tiên, Chia sẻ từ trái tim - 50 Bài giảng nhân quả thiết thực trong cuộc sống của Sa Môn Thích Pháp Hòa, được xuất bản và nhận được sự ủng hộ của đại chúng ở khắp nơi, chúng tôi thực hiện quyển sách tiếp theo, Con đường chuyển hoá - 50 Bài giảng về con đường chân chánh giúp chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, cũng là một tuyển tập từ các bài pháp thoại của thầy, nhưng ở góc độ tiếp cận Phật pháp nhiều hơn.

Trong quyển sách này, quý độc giả yêu mến thầy Thích Pháp Hòa qua những bài giảng của thầy trên YouTube và cả những độc giả muốn tìm hiểu sâu hơn về giáo lý của đức Phật có cơ hội tiếp cận với Phật pháp ở một góc nhìn chân phương, giản dị và khá đầy đủ thông qua những ví dụ và câu chuyện đời thường của thầy. Nhờ đó, những khái niệm thâm sâu nhưng vô cùng thiết yếu của giáo lý nhà Phật trở nên gần gũi và có khả năng ứng dụng được. Trong khi ngôn ngữ của giáo lý thường là rào cản thì những câu chuyện vui, những ví dụ gần với đời thường của thầy Thích Pháp Hòa lại có khả năng mang chúng ta đến gần hơn với các pháp môn tu tập, từ đó giúp chúng ta tìm thấy con đường an lạc và giải thoát cho chính mình.

VỀ TÁC GIẢ

Thầy Thích Pháp Hòa sinh năm 1974 tại Cần Thơ, trong một gia đình có hai con trai và thầy là con trưởng.

Cơ duyên của thầy với đạo Phật đã sớm bộc lộ từ khi thầy còn rất nhỏ. Vào năm bảy tuổi, thầy đòi mẹ dẫn vào một tịnh xá xin quy y và phát nguyện ăn chay, tụng kinh, thờ Phật. Tâm niệm xuất gia trong thầy cứ thế mỗi ngày một lớn. Năm mười hai tuổi, thầy và em trai cùng với mẹ của thầy sang Canada để đoàn tụ với cha của thầy.

Khi đặt chân đến thành phố Edmonton (Canada), thầy mới vỡ lẽ rằng nơi đây có rất ít người Việt và vì vậy cũng khó tìm thấy một ngôi chùa nào. Dù đối mặt với nhiều trở ngại, tâm bồ đề của thầy chẳng những không thối chuyển mà càng được củng cố mạnh mẽ hơn. Năm mười lăm tuổi, thầy chính thức xuất gia. Khi đó, tu viện Trúc Lâm tại Edmonton còn rất sơ khai.

Năm 1994, khi vừa tròn hai mươi tuổi, thầy được vị bổn sư gửi sang Làng Mai (Pháp) để thọ giới tỳ-kheo và đã được thiền sư Thích Nhất Hạnh trực tiếp truyền giới trong đại giới đàn Hương Tích. Tuy thời gian lưu lại tại Làng Mai ngắn ngủi (chỉ trong vòng một tháng) nhưng thầy đã tiếp nhận và học hỏi được rất nhiều. Từ đó, thầy có thể dung hòa những hình thức tu tập mới vào truyền thống mà thầy đang theo để ngày càng tăng tiến trong đạo. Sau khi nhận truyền đăng từ thiền sư Thích Nhất Hạnh vào năm 1999, thầy lại trở về Canada tiếp tục con đường hoằng pháp của mình. Đến năm 2006, sau một thời gian tu tập và giảng pháp, thầy được vị bổn sư tin cậy giao phó vai trò trụ trì Tu viện Trúc Lâm (tỉnh Alberta, Canada). Năm 2007, sau khi tu viện Tây Thiên được hoàn thành, thầy đảm nhiệm thêm trọng trách trụ trì tu viện Tây Thiên.

Với phong cách giản dị, gần gũi và khiêm cung và khả năng chuyển tải Phật pháp thâm sâu thành những cách thực hành gần gũi trong đời sống, thầy Thích Pháp Hòa nhận được sự yêu mến của đông đảo đại chúng thông qua những bài giảng pháp trên YouTube.

THÔNG TIN GIỚI THIỆU SÁCH

Trong Con đường chuyển hoá cũng gồm 50 bài giảng được tuyển chọn từ hàng trăm bài pháp thoại của thầy Thích Pháp Hòa. Ở quyển này, các bài có xu hướng đi sâu hơn vào giáo lý của đạo Phật và các pháp môn tu tập, nhưng quý độc giả sẽ vẫn dễ dàng tiếp nhận bởi cách tiếp cận Phật pháp giản dị và gần gũi của thầy.

50 bài giảng được chia thành năm phần.

Phần 1 – Con đường chân chánh

Phần 2 – Mười phương sen nở

Phần 3 – Sống trong hiện tại

Phần 4 – Muôn sự do tâm

Phần 5 – Người trí nhìn đời

Từ kho tàng kinh điển mênh mông của đạo Phật, thầy chắt lọc ra những nội dung cốt lõi, thiết thực nhất với đời sống con người và lý giải các khái niệm bằng những ngôn từ “thuần Việt”, đơn giản nhất có thể cùng với những ví dụ sống động, khiến cho mọi đối tượng người nghe đều có thể ứng dụng vào bản thân để tìm thấy con đường giải thoát ở mức độ phù hợp với mình.

Ở phần 1- Con đường chân chánh, cách tiếp cận của thầy khiến cho giáo lý và các phương pháp tu tập như Bát Chánh đạo, Tứ thần túc, Thất giác chi, v.v… trở nên dễ hiểu, thiết thực, và có thể áp dụng. Chúng ta nhận ra giáo lý nhà Phật không còn là những khái niệm, pháp môn xa vời.

Ở phần 2 – Mười phương sen nở, những người lâu nay thực hành thiền và chưa biết nhiều về Tịnh Độ hiểu được ý nghĩa thâm sâu của khái niệm cõi Tịnh độ, và họ cũng chợt nhận ra Thiền hay Tịnh cuối cùng đều đưa đến một chỗ, đó là sự an tịnh và giải thoát tuyệt đối. Và ở phần 3 – Sống trong hiện tại, người tu Tịnh Độ giờ đây hiểu thêm về pháp môn thiền. Họ cũng học được rằng nếu có thể kết hợp hai pháp môn này, việc tu tập của họ sẽ đạt được hiệu quả đáng kể.

Hai phần sau cùng là Muôn sự do tâm và Người trí nhìn đời. Có thể nói tu tâm và tu trí là hai mục đích cốt lõi của người tu theo đạo Phật – Làm sao để điều phục tâm và làm sao để trở thành người có trí tuệ. Người có trí thì thong dong tự tại trước “được” và “mất”, “thắng” và “thua”. Người có trí thì không buông lung theo bản ngã. Người có trí thì biết dung thông giữa đời sống thế gian và sự giải thoát rốt ráo. Người có trí thì có từ bi. Và người có trí thì điều phục được tâm.

Cũng như trong quyển Chia sẻ từ trái tim và trong mọi bài pháp thoại, thầy luôn khéo léo lồng ghép giáo lý của đạo Phật vào các câu chuyện kể, giúp người nghe liên hệ được tư tưởng thâm sâu của đạo Phật với những vấn đề thân thuộc trong cuộc sống của chính mình. Thầy luôn biết cách giải thích các khái niệm Phật học cao siêu theo một cách đơn giản nhất.

Bất luận giảng kinh nào, thầy cũng đều hướng Phật tử quay về gốc rễ của đạo Phật, hướng đến những điều cốt lõi, thiết yếu nhất, để người nghe không bị lạc lối trong mê cung của giáo lý, kinh luận.

Những người thường xuyên nghe các bài pháp thoại của thầy cũng như các độc giả của Con đường chuyển hoá hay Chia sẻ từ trái tim đều sẽ có thể cảm nhận được rằng bản thân thầy Thích Pháp Hòa phải có một quá trình tu tập, đọc, học hỏi và chiêm nghiệm sâu sắc thế nào thì mới có được sự hiểu biết, một phong thái dung dị và những bài giảng dễ tiếp nhận như thế.

QUOTES:

- Chuyển nghiệp là thay đổi một thói quen xấu.

- Đạo Phật không dạy chúng ta “khoanh tay chịu trận” nếu chẳng may chúng ta lỡ hình thành một thói quen xấu, mà đạo Phật dạy cho chúng ta cách chuyển nghiệp.

- Mình nói nhiều mà không đúng đâu vào đâu hết thì không bằng nói ít mà đúng.

- Giữ đạo không phải là giữ đạo Phật, giữ chùa, mà là giữ đạo tu của mình, giữ con đường của mình, để mình đi tới nơi tới chốn.

- Chánh niệm là trạng thái tĩnh lặng khi chúng ta nhận biết rõ ràng mọi điều đang diễn ra trong cuộc sống.

- Mình không nên răm rắp nghe theo chỉ vì đó là lời của Phật, mà mình phải tự kiểm nghiệm.

- Nếu đã chịu tu thì ngồi đâu cũng tu được.

- Nếu không thấy rõ pháp thì làm sao chúng ta ứng pháp một cách nhẹ nhàng, linh hoạt được?

- Ngay bây giờ, nếu chúng ta không bằng lòng được với Tịnh độ, với hạnh phúc mình đang có ở đây, thì chúng ta còn đợi đến bao giờ, còn đi tìm ở đâu nữa?

- Nếu tâm mình có Phật, mình sẽ giảm nghiệp. Bởi vì Phật là giác, mà giác là tỉnh, tỉnh là không mê.

- Đa số suy nghĩ của mình là vọng tưởng chứ không thật. Vì vậy, đức Phật dạy chúng ta nhiều cách để trị cái vọng tưởng của mình.

- Mình tu tập là phải đi đến chỗ tự tại và giải thoát.

- Cuộc đời này có khổ thì cũng có vui, và khổ hay vui cũng do mình.

- Trong cuộc sống của chúng ta, dù là việc lớn hay việc nhỏ, chúng ta đều cần cả hai lực, tự lực và tha lực, tức là sự trợ giúp của người khác.

- Đạo lý mà Phật trao truyền cho mình chính là Tục đế và Chân đế. Người nào nương tựa được và thấu suốt được cả hai đạo lý thì người đó có Niết bàn, có an lạc ngay trong đời này.

- Chánh niệm trong cuộc sống có nghĩa là chúng ta có đủ khả năng sống an ổn trong những giây phút hiện tại. Do đó, sự thực tập chánh niệm trong đạo Phật là việc quan trọng nhất.

- Có thêm một chút chánh niệm, mọi việc sẽ khác, sẽ đẹp hơn, hay hơn, ngon hơn, v.v…, còn không có chánh niệm thì cũng đâu có sao, mọi thứ chỉ dở hơn một chút, xấu đi một chút thôi.

- Cái gì đến rồi cũng sẽ qua, cho nên khổ có đến rồi khổ cũng sẽ qua.

- Nếu mình muốn tu tập thì trước hết, mình phải hiểu tâm của mình thế nào. Cũng giống như khi mình bệnh, mình phải biết mình bệnh gì thì mới tìm thuốc để uống được.

- Thật ra trong cuộc sống, không có gì ngoài tâm, và chỉ cần tâm an lạc là mọi việc sẽ bình an

2. Không Diệt Không Sinh Đừng Sợ Hãi

Nhiều người trong chúng ta tin rằng cuộc đời của ta bắt đầu từ lúc chào đời và kết thúc khi ta chết. Chúng ta tin rằng chúng ta tới từ cái Không, nên khi chết chúng ta cũng không còn lại gì hết. Và chúng ta lo lắng vì sẽ trở thành hư vô.

Bụt có cái hiểu rất khác về cuộc đời. Ngài hiểu rằng sống và chết chỉ là những ý niệm không có thực. Coi đó là sự thực, chính là nguyên do gây cho chúng ta khổ não. Bụt dạy không có sinh, không có diệt, không tới cũng không đi, không giống nhau cũng không khác nhau, không có cái ngã thường hằng cũng không có hư vô. Chúng ta thì coi là Có hết mọi thứ. Khi chúng ta hiểu rằng mình không bị hủy diệt thì chúng ta không còn lo sợ. Đó là sự giải thoát. Chúng ta có thể an hưởng và thưởng thức đời sống một cách mới mẻ.

Không diệt Không sinh Đừng sợ hãi là tựa sách được Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết nên dựa trên kinh nghiệm của chính mình. Ở đó, Thầy Nhất Hạnh đã đưa ra một thay thế đáng ngạc nhiên cho hai triết lý trái ngược nhau về vĩnh cửu và hư không: “Tự muôn đời tôi vẫn tự do. Tử sinh chỉ là cửa ngõ ra vào, tử sinh là trò chơi cút bắt. Tôi chưa bao giờ từng sinh cũng chưa bao giờ từng diệt” và “Nỗi khổ lớn nhất của chúng ta là ý niệm về đến-đi, lui-tới.”

Được lặp đi lặp lại nhiều lần, Thầy khuyên chúng ta thực tập nhìn sâu để chúng ta hiểu được và tự mình nếm được sự tự do của con đường chính giữa, không bị kẹt vào cả hai ý niệm của vĩnh cửu và hư không. Là một thi sĩ nên khi giải thích về các sự trái ngược trong đời sống, Thầy đã nhẹ nhàng vén bức màn vô minh ảo tưởng dùm chúng ta, cho phép chúng ta (có lẽ lần đầu tiên trong đời) được biết rằng sự kinh hoàng về cái chết chỉ có nguyên nhân là các ý niệm và hiểu biết sai lầm của chính mình mà thôi.

Tri kiến về sống, chết của Thầy vô cùng vi tế và đẹp đẽ. Cũng như những điều vi tế, đẹp đẽ khác, cách thưởng thức hay nhất là thiền quán trong thinh lặng. Lòng nhân hậu và từ bi phát xuất từ suối nguồn thâm tuệ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một loại thuốc chữa lành những vết thương trong trái tim chúng ta.

1. Con Đường Chuyển Hoá - Sa Môn Thích Pháp Hòa

2. Không Diệt Không Sinh Đừng Sợ Hãi (Tái Bản 2022)

đạo phật ngày nay (tái bản 2024)

đạo phật ngày nay (tái bản 2024)

Đạo Phật Ngày Nay

Dẹp bỏ tất cả những huyền đàm siêu hình, con người trở về thực tại để giải quyết những vấn đề của thực tại. Cuộc đời đầy những khổ đau. Mũi tên độc khổ đau đang làm cho chúng ta rên xiết, hãy tìm cách nhổ mũi tên đó ra khỏi thân thể của nhân loại. Chúng ta phải ý thức rằng chúng ta đang khổ đau. Ðó là nhận thức căn bản. Làm sao giải quyết vấn đề khổ đau thực tại nếu chúng ta không có ý thức về khổ đau thực tại? Làm sao có thể chữa lành được bệnh khi ta không biết là ta đang có bệnh, hoặc giả biết là bệnh nhưng không rõ là bệnh gì?

Hình bóng của những con người yếu đuối, mắt không dám nhìn thẳng, chân bước ngập ngừng, sợ sệt khổ đau, khúm núm trước quyền lực, cố nhiên không phải là hình bóng của người Tăng sĩ. Hình bóng của người tăng sĩ phải là hình bóng của một Long Thọ, một Huyền Trang, một Vạn Hạnh... đời sống thì đạm bạc, gian khổ, ý chí thì vững chắc như kim cương, đức độ thì khiêm cung, nhẫn nhục, hành nguyện thì rộng lớn như sóng biển. Người xuất gia phải có đôi mắt sáng chiếu niềm tin, chói lòa nghị lực, người xuất gia phải có nụ cười bất diệt khinh thường khổ đau. Có như thế mới biểu lộ chân tướng sáng rỡ của đạo Phật. Mà muốn được như thế, điều thiết yếu trước tiên là nhận thức thực trạng khổ đau, sống trong khổ đau, luyện mình thành sắt thép. Ta có thể chết đuối trong khổ đau, nhưng ta thành Phật cũng nhờ khổ đau. Chính khổ đau, chữa lành khổ đau, và khi đặt vấn đề nhận thức khổ đau làm đệ nhất đế của Tứ Diệu Ðế, Đức Phật quả đã nhận thấy tầm quan trọng của sự thực ấy một cách thâm thiết.

làng mai nhìn núi thứu (tái bản 2024)

làng mai nhìn núi thứu (tái bản 2024)

Làng Mai Nhìn Núi Thứu

Nhiều độc giả sau khi đọc cuốn Những Con Đường Đưa Về Núi Thứu có thể đã đặt ra câu hỏi: Trong những con đường đi về núi Thứu ấy, Làng Mai đã chọn con đường nào? Con đường mà Làng Mai chọn có thể là con đường ngắn nhất và dễ chịu nhất để đi về núi Thứu hay không?

Câu trả lời có thể tìm thấy một cách từ từ trong sách Làng Mai Nhìn Núi Thứu mà bạn đang cầm trên tay đây. Làng Mai (Đạo Tràng Mai Thôn) đã học hỏi, đã thực tập và cố nhiên đã chọn con đường của mình trong khi quán chiếu, trải nghiệm và xem xét những con đường vạch ra trong lịch sử Phật giáo. Đọc sách Những Con Đường Đưa Về Núi Thứu, độc giả đã thấy được tổng quát quá trình thành lập các tông phái Phật giáo và đại ý nội dung của từng tông phái. Ngoài cái thao thức muốn tìm hiểu bản ý của người khai mở con đường là Bụt, Làng Mai còn có cái thao thức muốn học và thực tập như thế nào để trong khi trung thành với giáo lý Nguyên thỉ vẫn có thể đáp ứng được nhu cầu tu tập và chuyển hóa của thời đại mình.

Các tông phái từ thời đại Phật giáo bộ phái cho đến thời đại Phật giáo đại thừa đều đã làm như thế và cố nhiên là Làng Mai cũng đã làm như thế. Có thể cái thấy của mình hôm nay sẽ được thay đổi để nhường chỗ cho một cái thấy sâu sắc và thật dụng hơn trong ngày mai. Trung thành với truyền thống cởi mở và không giáo điều của đạo Bụt, Làng Mai luôn mở rộng cửa cho sự thay đổi, cho nên không hê' có thái độ giáo điều và cứ khăng khăng cho rằng chỉ có cái thấy của mình là đúng. Đó là sự thực tập thường xuyên để xóa bỏ sở tri chướng và để luôn luôn có cơ hội đi lên.

...Chúng ta từ lâu đã bị ảnh hưởng tinh thần “thuật nhi bất tác” lập lại mà không sáng tác, thái độ này là thái độ tín đồ hơn là thái độ học giả. Chúng ta phải có can đảm phê phán những gì ta đã tiếp thu, học hỏi, trên kinh nghiệm thực tập và quán chiếu của chúng ta. Có như thế chúng ta mới thành lập được một nền Phật học thật sự Việt Nam, chứ không phải chỉ là một bản sao của đạo Bụt Trung Quốc.

Chúng ta phải có cơ hội lắng nghe nhau, trao đổi với nhau, thực tập với nhau thì chúng ta mới có thể cùng nhau cống hiến cho đất nước một nền Phật giáo dân tộc. Phật giáo Việt Nam không thể nào chỉ là một bản sao của Phật giáo Trung Quốc hay Phật giáo Tây Tạng.

(Thích Nhất Hạnh)

chế tác bình an và hạnh phúc trong giáo dục

chế tác bình an và hạnh phúc trong giáo dục

Chế Tác Bình An Và Hạnh Phúc Trong Giáo Dục

Hiện nay, vai trò của chánh niệm trong giáo dục ngày càng được công nhận một cách rộng rãi. Sự thực tập chánh niệm giúp học sinh tăng cường khả năng chú tâm, ý thức và làm chủ được các hoạt động của thân, điều phục các cảm xúc mạnh cũng như phát triển các kỹ năng giao tiếp, ứng xử trong mối liên hệ giữa mình với mọi người. Nhưng quan trọng hơn hết, chánh niệm giúp các em phát triển một cách toàn diện và lành mạnh, nuôi lớn niềm vui, sự bình an và tự tin nơi chính mình, thông qua những phương pháp thực tập làm lắng dịu căng thẳng, lo lắng và bạo động trong tự thân.

Thực tế là hệ thống giáo dục của chúng ta thường đặt trọng tâm vào thành tích thi cử mà chưa chú trọng đầy đủ đến việc dạy cho các em cách chăm sóc những cảm xúc của mình, cũng như các phép ứng xử cần thiết khi giao tiếp với xã hội. Lẽ tất nhiên là trường học cần trang bị cho các em những kỹ năng và kiến thức cần thiết, nhưng việc giúp các em có thêm sức mạnh và sự vững chãi khi đối diện với những cơn bão cảm xúc, cũng như khả năng chấp nhận và bao dung trước những khác biệt trong nhận thức, lối sống của con người trong xã hội cũng quan trọng không kém. Sự thực tập chánh niệm có công năng rất lớn trong việc giúp các em phát triển những kỹ năng chế tác và nuôi lớn bình an trong tự thân, góp phần vào sự bình an của môi trường xung quanh mình.

Cách đây một vài năm, hiệu trưởng của trường nữ sinh Welham (Welham Girls’ School) ở Dehra Dun, Ấn Độ có mời tôi chia sẻ một vài phương pháp thực tập chánh niệm với học sinh của trường nhằm giúp các em bớt căng thẳng trong các kỳ thi. Trong buổi chia sẻ đó, tôi nhận ra rằng những bài thực tập đơn giản về hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm đã có thể giúp các em lấy lại được sự bình an, lắng dịu và bớt lo lắng.

Theo lời mời của hiệu trưởng trường American Embassy School tại Delhi, tôi cũng đã hướng dẫn một khóa học về chánh niệm cho các giáo viên trong mười tuần. Đến bây giờ, những thầy cô giáo đã từng tham gia khóa học vẫn tiếp tục gặp nhau mỗi tuần một lần để chia sẻ sự thực tập. Dù khá bận rộn, các thầy cô giáo vẫn ưu tiên dành thời gian để đến và thực tập với nhau, bởi vì họ nhận ra sự thực tập chánh niệm có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với hạnh phúc của bản thân cũng như của các em học sinh. Cheryl Perkins, một giáo viên của trường American Embassy School với hơn ba mươi năm kinh nghiệm giảng dạy đã chia sẻ: “Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi sử dụng một công cụ giảng dạy nào có khả năng làm cho học sinh trong lớp học trở nên lắng dịu như tiếng chuông chánh niệm.”

Tôi đến Làng Mai lần đầu tiên vào năm 1989 và từ đó đến nay tôi vẫn thường xuyên đến Làng tu học. Mùa hè nào, Thiền sư Nhất Hạnh cũng tổ chức khóa tu cho các gia đình. Trong những khóa tu này, thiền sinh – đủ các độ tuổi – cùng nhau thực tập trở về với chính mình để ý thức rõ mình là ai, mình đang làm gì, nói gì, đang có những cảm xúc hay suy nghĩ gì, ý thức về những gì đang diễn ra bên trong và xung quanh mình. Cuốn sách này chính là hoa trái tu học của tứ chúng Làng Mai, được hình thành dựa trên kinh nghiệm thực tập cùng với trẻ em trong mấy chục năm qua.

Trong cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh cùng quý thầy, quý sư cô Làng Mai và nhiều cư sĩ đã hiến tặng tuệ giác của mình và đóng góp những câu chuyện, nhữngphương pháp thực tập cụ thể mà các bậc phụ huynh, thầy cô giáo và bất kỳ ai làm việc trong lĩnh vực có liên quan đến trẻ em đều có thể áp dụng. Những phương pháp thực tập vô cùng hữu ích này có thể được áp dụng trong gia đình, trường học, các đoàn thể địa phương một cách linh hoạt, sao cho nó thực sự có ý nghĩa và tạo hứng thú cho trẻ em.

Cuốn sách này là một cuốn cẩm nang dành cho tất cả những ai muốn thực tập và chia sẻ chánh niệm với trẻ em. Để có thể chia sẻ từ kinh nghiệm của chính mình, chúng ta cần thực tập trước tiên. Nếu chúng ta áp dụng những phương pháp thực tập trong cuốn sách này với gia đình và trẻ em trong cộng đồng nơi chúng ta ở thì cả trẻ em và người lớn đều được hưởng năng lượng bình an, tươi vui và hòa điệu mà sự thực tập mang lại.

Mỗi cá nhân đều có ảnh hưởng đến những thành viên khác trong cộng đồng. Vì vậy, khi có một vài nhóm nhỏ thực tập chánh niệm trong trường học hay trong cộng đồng, năng lượng bình an từ những nhóm người này sẽ có tác động lan tỏa rất lớn. Sự gắn kết, hòa điệu giữa con người với nhau cũng như với môi trường thiên nhiên xung quanh nhờ đó mà lớn dần lên. Chính trong bầu không khí an lành này, trẻ em mới có thể vui vẻ, thoải mái phát huy mọi tài năng vốn có của mình.

– Shantum Seth, một giáo thọ cư sĩ thực tập theo truyền thống Làng Mai, viết tại Delhi, Ấn Độ, năm 2010

TRÍCH ĐOẠN SÁCH:

Lắng trong

Trước khi thành lập Làng Mai, tôi đã sống ở Phương Vân Am cách Paris một tiếng rưỡi lái xe. Phương Vân Am nằm trên một ngọn đồi, xung quanh là rừng cây. Một hôm, có hai cha con người Việt đến Phương Vân Am. Người cha muốn nhờ tôi chăm sóc đứa con gái của ông, bé Thanh Thủy, để ông có thể lên Paris lo giấy tờ và kiếm việc làm. Bé Thanh Thủy khi ấy gần năm tuổi.

Tối nào Thanh Thủy cũng thấy tôi ngồi. Tôi bảo bé là tôi "ngồi thiền" và tôi không hề nói cho bé biết ngồi thiền là gì và ngồi như thế để làm gì. Mỗi tối, khi thấy tôi rửa mặt, mặc áo tràng và đi thắp một cây nhang cho thơm thiền phòng là nó biết tôi sắp đi "ngồi thiền". Nó cũng biết là đã đến giờ nó phải đi đánh răng, thay áo và leo lên chỗ nằm mà không nói chuyện.

Một ngày nọ, Thanh Thủy và mấy em bé khác chơi với nhau trên khu đồi phía sau nhà. Chơi được một lúc, chúng đến xin tôi nước uống. Tôi đi tìm chai nước táo cuối cùng còn lại và đem rót vào cho mỗi đứa một ly đầy. Ly chót là của Thanh Thủy. Ly này lợn cợn xác táo, không trong như ba ly trước. Thanh Thủy phụng phịu chê, không uống, rồi lại chạy lên đồi chơi.

Chừng một giờ sau, bé quay lại tìm nước uống. Tôi chỉ lên bàn, bảo: “Cháu uống ly nước táo này đi”. Thủy ngoảnh lại nhìn. Ly nước táo bấy giờ trong vắt không còn một tí lợn cợn nào nữa, trông thật ngon lành. Nó tới gần và đưa hai tay nâng ly nước táo lên uống. Uống được chừng một phần ba ly, Thủy đặt ly xuống và ngước mắt nhìn tôi: "Có phải đây là một ly nước táo mới không thưa ông?" Tôi trả lời: "Không, ly nước táo hồi nãy đó. Nó ngồi yên một lúc lâu cho nên trở thành trong vắt và ngon lành như vậy đó cháu." Thủy nhìn lại ly nước táo: "Ngon quá ông ơi. Có phải ly nước táo bắt chước ông ngồi thiền không hả ông?” Tôi bật cười vỗ nhẹ lên đầu nó. Có lẽ nói rằng tôi đã bắt chước ly nước táo mà ngồi thiền thì đúng hơn.

Chắc rằng trong cái đầu tí hon của nó, bé Thủy nghĩ rằng ly nước táo ngồi yên một hồi lâu là để cho nó lắng trở lại, và ông của nó ngồi yên một hồi lâu chắc cũng là để cho lắng trong, cho khỏe khoắn như ly nước táo. "Có phải ly nước táo bắt chước ông ngồi thiền không hả ông?". Tôi nghĩ bé Thủy chưa đầy bốn tuổi rưỡi mà đã hiểu thế nào là ngồi thiền mà không cần ai giải thích gì cho nó.

Ly nước táo ngồi lâu thì lắng trong. Theo cùng một định luật, ngồi lâu thì ta cũng lắng trong. Nếu ta biết cách ngồi, biết cách điều chỉnh tư thế ngồi của mình cho thật vững chãi, có mặt với hơi thở vào và hơi thở ra, thì sau một lúc, tâm ta sẽ trở nên an tĩnh và lắng trong.

Chúng ta phải học cách chăm sóc chính mình trong đời sống hàng ngày, trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, trong lúc ăn hoặc đánh răng. Con người chúng ta được tạo thành bởi năm yếu tố: hình hài, cảm xúc, tri giác, tâm hành và nhận thức. Năm yếu tố này là lãnh thổ vô cùng rộng lớn của chúng ta. Ta chính là vị quốc vương trên lãnh thổ ấy. Ta phải biết trở về và chăm sóc cho lãnh thổ của mình. Chánh niệm giúp chúng ta làm được việc ấy. Ví dụ như khi có một vùng nào đó trên cơ thể bị căng thẳng hay đau nhức, việc trước tiên ta nên làm là trở về và chăm sóc cho vùng đang bị thương tổn ấy. Ta hãy dành cho mình những giây phút lắng yên, trở về với hơi thở và thầm đọc:

Thở vào, tôi ý thức về toàn thân tôi

Thở ra, tôi buông thư toàn thân (buông bỏ hết những căng thẳng trong thân)

Khi đã biết cách chăm sóc cho thân, ta sẽ biết cách chăm sóc những cảm xúc trong ta. Với năng lượng chánh niệm, ta có thể làm phát khởi niềm vui và hạnh phúc trong ta; và khi một cảm xúc mạnh biểu hiện, ta có thể chăm sóc cho cảm xúc ấy. Ta có thể theo dõi hơi thở trong khi đọc thầm:

Thở vào, tôi ý thức về cảm xúc buồn đau trong tôi

Thở ra, tôi ôm lấy cảm xúc đó với tất cả sự dịu dàng.

Chúng ta không khỏa lấp khổ đau bằng cách tiêu thụ. Nhiều người trong chúng ta tìm cách trốn chạy khổ đau bằng cách đắm chìm trong phim ảnh, mạng lưới toàn cầu, rượu bia, sách báo, ăn uống, mua sắm, chuyện trò… Nhưng càng trốn chạy thì ta càng làm cho tình trạng khó khăn hơn mà thôi.

Bụt dạy rằng không có cái gì có thể sống sót nếu không có thức ăn. Sở dĩ niềm đau, nỗi sợ trong ta còn đó là vì ta cứ cho nó thức ăn. Một khi ta biết nhận diện và ôm ấp niềm đau, nỗi sợ thì nó lắng xuống. Nếu tiếp tục nhìn sâu, chúng ta sẽ nhận ra gốc rễ đồng thời thấy được những thức ăn nào ta đã cung cấp cho những niềm đau, nỗi sợ ấy mỗi ngày.

Nếu chúng ta khổ sở vì bị trầm cảm, chứng tỏ là ta đã sống, đã tiêu thụ như thế nào để đưa tới tình trạng trầm cảm. Bụt dạy rằng nếu chúng ta có thể nhìn sâu vào khổ đau của mình và nhận diện được nguồn thực phẩm nuôi dưỡng khổ đau, thì chúng ta đang đi trên con đường giải thoát.

CÂU HỎI VỀ MUỖI

Câu hỏi: Kính bạch Sư Ông, con hay bị muỗi cắn và con không muốn muỗi cắn con nữa. Mỗi ngày con có thể giết vài con muỗi được không ạ?

Sư Ông Làng Mai: Con muốn giết bao nhiêu con muỗi?

Bé: Chắc là mỗi ngày một con ạ.

Sư Ông Làng Mai: Con có nghĩ như vậy là đã đủ rồi không?

Bé: Dạ, đủ ạ.

Sư Ông Làng Mai: Hồi nhỏ Sư Ông cũng từng đặt ra câu hỏi như vậy. Sau này, Sư Ông phát hiện ra rằng loài muỗi cũng cần thức ăn để sống. Muỗi luôn cố gắng tìm kiếm thức ăn, cũng như loài người chúng ta vậy. Ta tìm kiếm thức ăn khi đói và đó là một điều rất tự nhiên.

Sư Ông nghĩ ta có nhiều cách để bảo vệ mình khỏi bị muỗi chích. Ở Việt Nam, ai cũng thường giăng mùng ngủ mỗi đêm để tránh muỗi. Nếu không có mùng thì chắc họ phải thức cả đêm để đập muỗi. Không chỉ một vài con, vì sau khi con giết một con thì con khác sẽ đến. Con có thể thức trắng đêm chỉ để đập muỗi. Vì vậy, giết muỗi không phải là giải pháp. Sư Ông nghĩ ở Làng Mai có một số mùng. Con chỉ cần hỏi các thầy, các sư cô để mượn một cái, như vậy con có thể cứu được mạng sống nhỏ nhoi của mấy con muỗi.

Lâu lâu Sư Ông thấy một con muỗi đáp xuống và Sư Ông tạo ra một trận bão nhỏ bằng cách phẩy nhẹ cánh tay cho nó bay đi. Sư Ông làm vậy mà không có chút bực bội nào. Sư Ông chỉ không cho nó đốt mình thôi.

hỏi đáp từ trái tim (tái bản 2024)

hỏi đáp từ trái tim (tái bản 2024)

Hỏi Đáp Từ Trái Tim

“Khi mới bắt đầu thực tập chánh niệm, quý vị thường có cả ngàn câu hỏi. Nhưng trước khi tìm người khác để xin giải đáp thì hãy ngồi xuống với câu hỏi của mình. Quý vị sẽ ngạc nhiên khi khám phá ra rằng nhờ nhìn sâu và ôm ấp câu hỏi mà quý vị có thể tự trả lời hầu hết các câu hỏi của mình. Chúng ta có thói quen luôn hướng ngoại, nghĩ rằng chúng ta có thể tiếp nhận tuệ giác hay từ bi từ một người khác, từ Bụt, từ lời dạy của Bụt (Pháp) hay từ Tăng thân. Nhưng mà quý vị là Bụt, quý vị là Pháp, quý vị là Tăng.

Mục đích của cuốn sách này không phải để giảng dạy đạo Bụt. Chất chứa kiến thức về đạo Bụt không giúp ta trả lời được những câu hỏi khẩn thiết. Chúng ta phải học những gì có thể giúp chuyển hóa khổ đau của chính chúng ta, tháo gỡ những tình huống ngặt nghèo của chính chúng ta.

Một vị đạo sư nếu là một vị đạo sư đích thực thì những lời giảng dạy của người phải giúp ta tiếp xúc với sự sống và giúp ta cởi bỏ thành kiến, ý tưởng cũng như tập khí. Mục đích của một vị đạo sư đích thực là giúp đệ tử của mình chuyển hóa. Một câu hỏi hay là một câu hỏi có thể giúp ích cho rất nhiều người. Chúng ta nên đặt những câu hỏi từ tận đáy lòng mình, những câu hỏi liên quan đến hạnh phúc, khổ đau, sự chuyển hóa và sự thực tập. Một câu hỏi hay không cần phải dài dòng. Thiền sư Lâm Tế là một thiền sư nổi tiếng ở Trung Quốc của thế kỷ thứ chín. Ông ta nổi tiếng vì những cuộc thi ề n chiến giữa thầy và trò. Một thiền sinh thường đứng lên hỏi một câu hỏi để xem thử mức hiểu biết của mình đã chín muồi hay chưa. Thiền sư Lâm Tế thường bắt đầu bằng câu: “Nào, có vị nào xuất trận thì ra đây”. Trong trận chiến ấy thiền sinh đôi khi thắng, đôi khi bại. Trong cuốn sách này những vị nêu lên câu hỏi không cần phải xuất trận. Trong một trận chiến sẽ có người thắng kẻ thua. Trái lại, tôi cố gắng nhìn sâu vào từng câu hỏi và từng người hỏi với tâm từ bi, như chính tôi là người đã nêu lên câu hỏi ấy. Điều này không có nghĩa là những câu trả lời sẽ nói lên được những gì mình muốn nghe. Chúng ta có xu hướng tránh né một mũi tiêm hay một viên thuốc đắng mặc dầu ta biết mũi tiêm hay viên thuốc đắng ấy giúp ta lành bệnh. Cũng thế, chúng ta thường tránh né những câu trả lời gợi lên những kinh nghiệm khổ đau của đời mình.

Đôi khi những câu trả lời trong nhà Thiền giống như những rào cản giúp chặn đứng dòng suy luận của thiền sinh. Suy luận không phải là chứng ngộ. Chứng ngộ nhanh hơn chớp nhoáng. Ở đâu có suy luận là ở đó có thất bại.

Đôi khi vị đạo sư phải trả lời theo cách mà thiền sư Lâm Tế gọi là đoạt cảnh. Nghĩa là khi một thiền sinh nêu lên một câu hỏi, nếu vị đạo sư dành hết thì giờ giải thích thì có khi chẳng giúp ích gì và vị thiền sinh vẫn còn bị kẹt trong suy luận và kiến chấp của mình. Thay vào đó, vị đạo sư gạt bỏ câu hỏi, bởi vì câu hỏi ấy rất có thể nêu lên một trở ngại không thật. Tôi thường đoạt cảnh để đưa câu hỏi về lại với thiền sinh.

Tôi hy vọng rằng nhờ những câu hỏi trong cuốn sách này mà hành giả có thể tìm được phương thuốc chữa trị rất cần thiết. Lời dạy của Bụt thường được gọi là viên âm. Nghĩa là lời dạy tròn đầy, phù hợp với mọi chúng sanh. Viên âm cũng có nghĩa là lời dạy thích hợp cho người nghe, có liên hệ trực tiếp với hoàn cảnh hiện thực của người nghe. Tham vấn là một cơ hội giúp ta thực tập khả năng lắng nghe với lòng rộng mở, sẵn sàng đón nhận trong trạng thái tĩnh lặng an nhiên. Lắng nghe như thế thì chắc chắn ta sẽ nhận được phương thuốc mà ta đang cần”.

hiếu - thở cho ba, mỉm cười cho má

hiếu - thở cho ba, mỉm cười cho má

Hiếu - Thở Cho Ba, Mỉm Cười Cho Má

Chứa đựng những phương pháp có thể thực hành cùng nhau, để hóa giải những khổ đau cũ, để có thể “vượt thắng giận hờn”.

Cơ hội để thực hành biết ơn sự có mặt của cha mẹ trong cuộc đời, để thành thật với cảm xúc của bản thân.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những nhân vật có thể đưa đạo vào đời một cách rất chân thực, rất gần gũi thông qua các buổi chia sẻ, pháp thoại, pháp đàm,… Với lối dùng ngôn từ mộc mạc, giản dị, nhưng những giáo lý được gửi gắm trong bản thảo lại sâu sắc và đáng suy ngẫm vô cùng!

Như Sư ông từng dạy, “Tu là Hiếu”! Chỉ một câu ngắn gọn như thế, nhưng lại khiến người nghe, người đọc phải lắng lại rất lâu để tự quan sát chính nội tâm của mình, hòng tìm ra câu trả lời xác đáng nhất, tìm thấy con đường đi phù hợp nhất để bản thân mỗi người có thể thực hành một cách đúng đắn với chính mình và hài hòa với mọi người xung quanh.

Nhân mùa Vu Lan 2024, Công ty Cổ phần Văn hóa Công nghệ Tuệ Tri kết hợp cùng nhóm thực hiện Simple Books giới thiệu đến độc giả, đặc biệt là các bạn trẻ, quyển sách “Hiếu – Thở cho Ba, mỉm cười cho Má”. Nội dung sách được cấu trúc thành nhiều phần nhỏ, chia sẻ về những sự thật buồn liên quan đến việc truyền thông đứt gãy tạo nên khoảng cách trong gia đình, khiến một số bạn trẻ mất phương hướng; một số nội dung dành cho cha mẹ, một số dành cho người làm con; và trên hết, đó là những gợi ý để mọi thành viên trong gia đình có thể thực tập cùng nhau, nhằm biến không khí trong gia đình trở nên hòa thuận, êm ấm. Quyển sách như một món quà nhắc nhở cho chúng ta biết bản thân mình đã, đang và được thụ hưởng sự tuyệt vời từ tình thương không bờ bến của cha mẹ. Có biết trân trọng hay không là tùy thuộc ở chính chúng ta!

Dựa trên tinh thần hiểu và thương, cùng lời nhắc nhở về giá trị sâu sắc của tình cha mẹ, cuốn sách “Hiếu – Thở cho Ba, mỉm cười cho Má” đưa ra những thực tế vốn đang tồn tại trong xã hội hiện đại này theo cách trung dung nhất; để trước những hiện thực xã hội đó, chúng ta sẽ tự hỏi mình có phải “đứa con khó dạy” không? Hay thậm chí, là vấn đề quá khứ của cha mẹ, nhưng lại có liên hệ trực tiếp đến chính chúng ta ở hiện tại này; và từ đó, ta suy ngẫm về cách để cùng cha mẹ hóa giải những khổ đau cũ, để có thể “vượt thắng giận hờn”.

Như trong đoản văn “Bông hồng cài áo” mà Sư ông đã viết, “tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành”; vấn đề là nếu chúng ta không hiểu sâu sắc được thì không có nhiều cơ hội để thụ hưởng sự ngon lành này. Hiểu sâu sắc là thấy được ta là sự kế thừa, thấy được “con có cha có mẹ” là một sự thật không ai có thể chối bỏ. Đó mới là hiểu đúng về ý nghĩa của “bông hoa màu hồng cài trên ngực áo” mỗi mùa Vu Lan.

Một giá trị sâu sắc và xuyên suốt quyển “Hiếu – Thở cho Ba, mỉm cười cho Má” nữa, đó là sự tương tác giữa cha mẹ và con cái. Nên, không chỉ nhắc nhở những người làm con hiểu đúng, hiểu sâu và thực hành việc tiếp nối một cách đẹp đẽ, Thiền sư Thích Nhất Hạnh còn nói về việc người làm cha, làm mẹ nên thay đổi góc nhìn ra sao.

Nếu cha mẹ không hiểu xu thế phát triển của thế hệ các con thì làm sao có thể “thiết lập truyền thông trong gia đình” được? Và nếu không có truyền thông lành mạnh thì làm sao cha mẹ có thể cho con được “tình thương mang tên tuệ giác”? Cha mẹ cũng cần thực tập rất nhiều, để trở thành người bạn đồng hành của con, để cùng con có được “hiện pháp lạc trú”, để dạy cho cách “gạn lọc nhiễm ô” trong thói quen hằng ngày.

Bằng những ví dụ rất gần gũi trong mối quan hệ gia đình, giữa cha mẹ với con cái, người đọc có thể hiểu việc “học vô thường để có chánh kiến”, tức có cái nhìn đúng đắn nhằm tiếp cận dễ dàng và thực hành việc “đưa vô ngã vào đời”. Hai khái niệm “vô thường” và “vô ngã” không còn xa lạ nữa, cũng không còn được nhìn theo góc độ tôn giáo mà là những nội dung bất kỳ ai cũng có thể lĩnh hội để thay đổi dần cách nhìn, cách sống của mình, để cùng người thân có được “khoảnh khắc an lạc cùng nhau”.

Những độc giả hữu duyên sau khi đọc xong “Hiếu – Thở cho Ba, mỉm cười cho Má”, sẽ có thêm cơ sở để cởi mở hơn từ góc nhìn, để điều chỉnh lời nói thành ái ngữ, điều chỉnh hành động từ chưa lành mạnh sang dễ thương…, giúp người trẻ tin vào hạnh phúc gia đình, để họ không trở thành “những con ma đói tình thương” lang thang tìm một chỗ dựa.

Hy vọng bất kỳ ai hữu tình cầm trên tay quyển sách này cũng hiểu thật sâu sắc “thông điệp mùa Vu Lan”, cũng có thể “định lại và nhìn nhau” để trao tặng đóa hoa hồng tươi thắm cho mẹ, cho cha nhân ngày báo hiếu!

thả một bè lau (tái bản 2024)

thả một bè lau (tái bản 2024)

Thả Một Bè Lau

Ngày xưa tôi cũng đã từng dạy văn chương Việt Nam và đã dạy Truyện Kiều. Nhưng tâm thức của tôi lúc đó không được như bây giờ. Tôi đã dạy với tư cách một giáo sư văn chương mà chưa bao giờ dạy với tư cách một thiền sư. Nhìn với tư cách một thiền sư là nhìn sâu, nhìn kỹ, nhìn bằng sự khám phá của thiền quán mọi sự kiện qua những nhận thức, đau khổ, hạnh phúc, thành công, thất bại,...

Nếu có chánh niệm, đem những khổ đau, luân lạc, gian truân của mình ra đọc Truyện Kiều, chúng ta có cơ hội thấy được bản thân. Và như vậy đọc Truyện Kiều cũng là tu. Tu tức là nhìn tất cả những gì đã và đang xảy ra trong đời mình bằng con mắt quán chiếu. Nhìn như vậy trong khi đọc lại Truyện Kiều ta có thể thấy được những điều rất mới.

------ oOo ------

Sự sống chân thật được làm bằng chất liệu của sự chết. Hạnh phúc chân thật được làm bằng chất liệu của khổ đau. Người nào trong chúng ta đã từng đau khổ thì đừng vì vậy mà buồn phiền. Những đau khổ đó chính là chất liệu cần thiết để chúng ta có thể tạo dựng ra hạnh phúc và giải thoát, như những người làm vườn biết sử dụng rác để làm phân, biến rác thành hoa. Những người chưa đau khổ thì khó thành công hơn những người đã từng đau khổ.

(Trích Thả một bè lau)

đường xưa mây trắng - theo gót chân bụt - bìa cứng (tái bản 2024)

đường xưa mây trắng - theo gót chân bụt - bìa cứng (tái bản 2024)

Đường Xưa Mây Trắng - Theo Gót Chân Bụt - Bìa Cứng

Đường Xưa Mây Trắng là một câu chuyện vô cùng lý thú về cuộc đời của Bụt được kể lại dưới ngòi bút hùng hồn đầy chất thơ của tác giả. Với văn phong nhẹ nhàng giản dị, với lối kể chuyện sinh động lôi cuốn, tác giả đã đưa chúng ta trở về tắm mình trong dòng sông Nguyên thỉ cách đây gần 2.600 năm, để được hiểu và gần gũi với một bậc giác ngộ mà cuộc đời của Ngài tỏa rạng nếp sống đầy tuệ giác và từ bi. Đọc Đường Xưa Mây Trắng cho chúng ta cảm tưởng như đang đọc một thiên tình sử, nhẹ nhàng, gần gũi mà sâu lắng.

Sách Đường Xưa Mây Trắng đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng, được tái bản nhiều lần ở các nước và được xếp vào hàng những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20.

(Làng Mai)

Tôi đã viết những chương của Đường Xưa Mây Trắng với rất nhiều hạnh phúc. Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với Đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết, mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá.

Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ ba anh em ông Ca Diếp. Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chãi là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công.

Cái chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Mình đã thành Phật rồi, mình đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình mình vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của em. Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công.

Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả, giúp cho người ta khám phá lại Bụt như một con người và lột ra hết các vòng hào quang thần dị người ta đã choàng lên cho Bụt. Không thấy Bụt như một con người thì người ta sẽ tới với Bụt rất khó.

(Thích Nhất Hạnh)

Tác Giả:

Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1926) là một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình người Việt Nam.

Ông sinh ra ở Thừa Thiên-Huế, miền Trung Việt Nam, xuất gia theo Thiền tông vào năm 16 tuổi, trở thành một nhà sư vào năm 1949. Ông là người đưa ra khái niệm "Phật giáo dấn thân" (engaged Buddhism) trong cuốn sách Vietnam: Lotus in a Sea of Fire.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 100 cuốn sách, trong số đó hơn 40 cuốn bằng tiếng Anh. Ông là người vận động cho phong trào hòa bình, với các giải pháp không bạo lực cho các mâu thuẫn.

Một số tác phẩm của ông: Con sư tử vàng của thầy Pháp Tạng - Nẻo về của ý - Am mây ngủ - Văn Lang dị sử - Đường xưa mây trắng - Truyện Kiều văn xuôi - Thả một bè lau - Bông hồng cài áo - Đạo Phật ngày nay - Nói với tuổi hai mươi - Trái tim của Bụt...

từng bước nở hoa sen (tái bản 2024)

từng bước nở hoa sen (tái bản 2024)

Từng Bước Nở Hoa Sen

MỘT TRONG NHỮNG TÁC PHẨM ĐỂ LẠI ĐỜI CỦA THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH

Mắt thương nhìn cuộc đời

“Ta đã để bao nhiêu ngày của ta trôi qua trong quên lãng?”, “Ta đã làm chi đời ta?”. Bạn hãy chiêm nghiệm đi. Bạn hãy tìm cho ra bản chất của nụ cười. Bản chất ấy, phải chăng là sự giác ngộ?

Nhưng làm sao để nhớ mà mỉm cười vào đúng lúc thức dậy? Bạn có thể treo một dấu hiệu trên đỉnh màn, hoặc ở trần nhà, hoặc bất cứ nơi nào mà hễ mở mắt ra khi thức dậy là bạn nhìn thấy. Dấu hiệu đó có thể là một cành cây, một chiếc lá, một bức vẽ hay một nét chữ.

Sau này quen rồi, bạn không cần đến những phương tiện ấy nữa. Nghe chim hót hoặc thấy một tia nắng xuyên qua cửa sổ, bạn cũng đã có thể mỉm cười.

Câu “Mắt thương nhìn cuộc đời” được lấy từ kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn nói về Bồ tát Quán Thế Âm. Nguyên văn là “Từ nhãn thị chúng sinh”, lấy con mắt từ bi để nhìn mọi loài. Bạn nên nhớ rằng có hiểu mới thương. Vì vậy bạn phải thường xuyên đặt mình vào xương da và hoàn cảnh của người khác để có thể hiểu được họ. Thương là một quá trình học hỏi và thực tập. Bản chất của thương cũng là bản chất của giác ngộ, đồng thể với bản chất của nụ cười.

Từng bước nở hoa sen – Cuốn sách giúp bạn nuôi dưỡng sự an lạc và tình yêu thương

Tác phẩm “Từng bước nở hoa sen” phiên bản bìa mới với ruột in bốn màu sắc nét, tranh vẽ minh họa màu sắc trang nhã của Thiền sư Thích Nhất Hạnh có bốn mươi bảy bài kệ. Mỗi bài là một bài thơ, cho nên các bài kệ cũng có thể được gọi là thi kệ.

Những bài kệ này có công năng nuôi dưỡng ý thức và nuôi dưỡng chánh niệm. Sử dụng chúng trong một thời gian, bạn sẽ thấy có sự biến đổi trong cuộc đời bạn.

Dần dần, bạn sẽ có chánh niệm trong mỗi tư thế và động tác trong ngày. Bạn sẽ thấy bốn mươi bảy bài kệ trong đây chỉ là những bước đầu của nếp sống tỉnh thức.

Thông qua “Từng bước nở hoa sen”, bạn sẽ học được cách biến con đường mình đang đi trong tỉnh thức, trở về trạng thái thư thái, an lạc và thanh tịnh vốn có. “Từng bước nở hoa sen” sẽ giúp cho những ai đang tìm kiếm sự bình an trong tâm hồn qua những việc tưởng chừng như bình thường mà bạn vẫn đang làm trong cuộc sống hằng ngày như: thức dậy, đánh răng, tắm, rửa chân, uống trà, làm vườn…. Sách có những từ ngữ thiên về Phật giáo nhiều, bạn đọc cần dành nhiều thời gian nghiền ngẫm để có thể hiểu và thực hành tu tập một cách đúng nghĩa.

“Chén trà trong hai tay

Chánh niệm nâng tròn đầy

Thân và tâm an trú

Bây giờ và ở đây.”

Trích “Từng bước nở hoa sen” – Thích Nhất Hạnh.

Sách có gì mới:

- Phiên bản bìa mới

- Nội dung được bổ sung chỉnh sửa

- Tăng số trang & đính kèm hình vẽ sinh động

- Quy cách in 4 màu

bông hồng cài áo - bìa cứng (tái bản 2024)

bông hồng cài áo - bìa cứng (tái bản 2024)

Bông Hồng Cài Áo - Bìa Cứng

Bông Hồng Cài Áo là tên một đoản văn viết về Mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và cũng là tên một ca khúc bất hủ do Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sáng tác trong thập niên 1960, lấy ý từ bài viết trên.

Ban đầu, Bông Hồng Cài Áo là tên một bài viết rất cảm động về Mẹ, do Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết năm 1962 tại Sài Gòn. Trong bài viết, Thiền sư Thích Nhất Hạnh kể về một tập tục đẹp mà ông gặp ở Nhật Bản:

"Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother's Day) mồng mười tháng năm (năm đó). Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Ðông Kinh (Tokyo), nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng..."

Trong bản văn, thay vì như ca khúc Lòng Mẹ ví tình Mẹ như biển bao la, như suối ngọt không cạn, Bông Hồng Cài Áo của nhà sư Nhất Hạnh vẽ nên người Mẹ qua những hình ảnh và lời văn đơn sơ mà gần gũi, và rất đỗi thân thương: Mẹ già như chuối ba hương, Như xôi nếp một như đường mía lau. Nhà sư cũng viết "Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên... Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ... Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ."

Cuối cùng bản văn, nhà sư Nhất Hạnh viết :"Ðó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Ðóa hoa mầu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi!"

Như vậy ban đầu bông hoa ở đây không nhất thiết là hoa hồng. Tuy nhiên, khi tập tục này du nhập vào Việt Nam, thì hoa hồng là loại hoa được sử dụng phổ biến nhất.

Trong những năm 1965-1966, khi Phạm Thế Mỹ bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt giam vì đấu tranh trong phong trào Phật giáo, ông đã lấy ý từ bài văn trên của sư Nhất Hạnh để viết ca khúc này. Từ đó, bài ca "Bông hồng cài áo" không chỉ luôn luôn được hát lên ở mỗi mùa lễ Vu Lan, mà còn là một trong những ca khúc cảm động, chân thành nhất về Mẹ.

Nhiều ca sĩ đã thể hiện ca khúc này, trong số đó có Thái Thanh, Duy Khánh, Khánh Ly, Tuấn Ngọc, Miên Đức Thắng, Nguyễn Hưng, Cẩm Vân, Quang Linh, Bằng Kiều, Đan Trường, Mạnh Quỳnh...

Thông tin tác giả: Thích Nhất Hạnh

Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1926) là một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình người Việt Nam.

Ông sinh ra ở Thừa Thiên-Huế, miền Trung Việt Nam, xuất gia theo Thiền tông vào năm 16 tuổi, trở thành một nhà sư vào năm 1949. Ông là người đưa ra khái niệm "Phật giáo dấn thân" (engaged Buddhism) trong cuốn sách Vietnam: Lotus in a Sea of Fire.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 100 cuốn sách, trong số đó hơn 40 cuốn bằng tiếng Anh. Ông là người vận động cho phong trào hòa bình, với các giải pháp không bạo lực cho các mâu thuẫn.

Một số tác phẩm của ông:

- Con sư tử vàng của thầy Pháp Tạng

- Nẻo về của ý

- Am mây ngủ

- Văn Lang dị sử

- Đường xưa mây trắng

- Truyện Kiều văn xuôi

- Thả một bè lau

- Bông hồng cài áo

- Đạo Phật ngày nay

- Nói với tuổi hai mươi

- Trái tim của Bụt

- ...

đường xưa mây trắng - theo gót chân bụt (tái bản 2024)

đường xưa mây trắng - theo gót chân bụt (tái bản 2024)

Đường Xưa Mây Trắng - Theo Gót Chân Bụt

Đường Xưa Mây Trắng là một câu chuyện vô cùng lý thú về cuộc đời của Bụt được kể lại dưới ngòi bút hùng hồn đầy chất thơ của tác giả. Với văn phong nhẹ nhàng giản dị, với lối kể chuyện sinh động lôi cuốn, tác giả đã đưa chúng ta trở về tắm mình trong dòng sông Nguyên thỉ cách đây gần 2.600 năm, để được hiểu và gần gũi với một bậc giác ngộ mà cuộc đời của Ngài tỏa rạng nếp sống đầy tuệ giác và từ bi. Đọc Đường Xưa Mây Trắng cho chúng ta cảm tưởng như đang đọc một thiên tình sử, nhẹ nhàng, gần gũi mà sâu lắng.

Sách Đường Xưa Mây Trắng đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng, được tái bản nhiều lần ở các nước và được xếp vào hàng những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20.

(Làng Mai)

Tôi đã viết những chương của Đường Xưa Mây Trắng với rất nhiều hạnh phúc. Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với Đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết, mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá.

Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ ba anh em ông Ca Diếp. Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chãi là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công.

Cái chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Mình đã thành Phật rồi, mình đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình mình vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của em. Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công.

Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả, giúp cho người ta khám phá lại Bụt như một con người và lột ra hết các vòng hào quang thần dị người ta đã choàng lên cho Bụt. Không thấy Bụt như một con người thì người ta sẽ tới với Bụt rất khó.

(Thích Nhất Hạnh)

Tác Giả:

Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1926) là một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình người Việt Nam.

Ông sinh ra ở Thừa Thiên-Huế, miền Trung Việt Nam, xuất gia theo Thiền tông vào năm 16 tuổi, trở thành một nhà sư vào năm 1949. Ông là người đưa ra khái niệm "Phật giáo dấn thân" (engaged Buddhism) trong cuốn sách Vietnam: Lotus in a Sea of Fire.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 100 cuốn sách, trong số đó hơn 40 cuốn bằng tiếng Anh. Ông là người vận động cho phong trào hòa bình, với các giải pháp không bạo lực cho các mâu thuẫn.

Một số tác phẩm của ông: Con sư tử vàng của thầy Pháp Tạng - Nẻo về của ý - Am mây ngủ - Văn Lang dị sử - Đường xưa mây trắng - Truyện Kiều văn xuôi - Thả một bè lau - Bông hồng cài áo - Đạo Phật ngày nay - Nói với tuổi hai mươi - Trái tim của Bụt...

an lạc từng bước chân

an lạc từng bước chân

An Lạc Từng Bước Chân

“Hãy đi những bước chân như hôn vào mặt đất

Hãy đi những bước chân như vỗ về trái đất..."

Buổi sáng khi thức dậy, ta biết rằng ta có hai mươi bốn giờ trước mặt để sống. Đó là một món quà quý giá. Ta sống như thế nào để có an lạc và hạnh phúc trong suốt hai mươi bốn giờ, mà người khác cũng nhờ đó có an lạc và hạnh phúc.

An lạc có mặt trong ta ngay tại đây trong giờ phút này, trong mỗi vật và mỗi việc ta làm hay ta thấy. Vấn đề là ta có biết tiếp xúc với nó không. Bầu trời xanh ở ngay trước mắt ta, ta đâu cần phải đi đâu xa để thưởng thức trời xanh. Ta cũng không cần rời thành phố ta ở mới thấy được vẻ đẹp của đôi mắt trẻ thơ. Không khí trong lành ta thở đã có thể cho ta biết bao hạnh phúc rồi.

Ta hãy đi, đứng, thở, mỉm cười và ăn cơm như thế nào để luôn luôn được tiếp xúc với những mầu nhiệm quanh ta. Ta sắp đặt và chuẩn bị đời sống rất giỏi nhưng ta chưa giỏi trong cách sống. Ta có thể hy sinh mười năm trời để đạt cho được tấm bằng kỹ sư hay bác sĩ, ta sẵn sàng làm việc rất cực nhọc để có công ăn việc làm, để mua nhà, mua xe v.v. Nhưng ta quên rằng ta đang sống trong hiện tại và ta chỉ có thể thật sự sống trong giây phút hiện tại mà thôi.

Chỉ cần tỉnh thức thì mỗi hơi thở và mỗi bước chân là một nguồn an lạc, chúng cho ta

biết bao niềm vui và biết bao sự thanh thản.

Cuốn sách “An lạc từng bước chân” có thể được xem như tiếng chuông nhắc nhở ta rằng hạnh phúc đang có mặt. Ta biết rằng chuẩn bị cho tương lai cũng là một phần của sự sống nhưng sự chuẩn bị cũng nằm trong hiện tại.

Cùng với 3 chủ đề Hơi thở thở ý thức, hơi thở nhiệm mầu, Chuyển hóa và trị liệu, An lạc từng bước chân, nội dung cuốn sách “An lạc từng bước chân” của Sư ông Làng Mai mời ta quay về với hiện tại để tìm lại an lạc và hạnh phúc. Niềm vui có trong từng giây phút, ta gìn giữ và nuôi dưỡng những hạt giống tốt đẹp.

An lạc trong từng bước chân. Hãy nắm tay nhau và cùng bước từng bước chân thật vững chãi và thảnh thơi trên con đường dài.

Mục lục:

Phần 1: Hơi thở ý thức, hơi thở mầu nhiệm

Hai Mươi Bốn Giờ Tinh Khôi

Cây Bồ Công Anh Mỉm Cười Cho Tôi

Hơi Thở Ý Thức

Hiện tại: Giây Phút Nhiệm Mầu

Bớt Suy Nghĩ Lại

Nuôi Dưỡng Chánh Niệm Trong Từng Phút Giây

Ngồi Đâu Cũng Là Ngồi Thiền

Thiền Tọa

Chuông Chánh Điện

Chiếc Bánh Thời Thơ Ấu

Bí Tích Thánh Thể

Ăn Cơm Chánh Niệm

Rửa Chén

Thiền Hành

Thiền Điện Thoại

Thiền Lái Xe

Quay Về Một Mối

Cắt Cỏ Và Thở

Vô Nguyện

Đời Sống Là Một Tác Phẩm Nghệ Thuật

Hy Vọng, Trông Chờ Đôi Khi Là Một Trở Ngại

Bông Hoa Và Nụ Cười Ngài Ca Diếp

Phòng Thở

Cuộc Hành Trình Vẫn Tiếp Tục

Phần 2: Chuyển hóa và trị liệu

Dòng Sông Cảm Thọ

Không Cắt Bỏ

Chuyển Hóa Những Cảm Thọ

Ý Thức Về Cái Giận

Đập Gối Để Trút Cơn Giận

Thiền Hành Khi Đang Giận

Luộc Khoai

Nguồn Gốc Của Cơn Giận

Nội Kết

Sống Chung Hòa Hợp

Bàn Tay Của Bạn

Cha Mẹ

Giữ Gìn Và Nuôi Dưỡng Những Hạt Giống Tốt

Tiếp Xúc Với Những Gì Mầu Nhiệm

Trách Móc Không Giúp Được Gì

Hiểu Và Thương

Tình Thương Chân Thật

Từ Bi Quán

Thiền Ôm

Đầu Tư Vào Tăng Thân

Cháu Chắt Là Niềm Vui Của Ông Bà

Tăng Thân Tu Học

Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời

Phần 3: An lạc từng bước chân

Tương Tức

Hoa Và Rác

Vững Chãi Thảnh Thơi

Tinh Thần Bất Nhị

Chữa Trị Những Vết Thương Chiến Tranh

Trái Tim Mặt Trời

Nhìn Sâu

Nghệ Thuật Sống Tỉnh Thức

Nuôi Dưỡng Chánh Niệm

Bức Thư Tình

Bổn Phận Người Công Dân

Bảo Vệ Thân Tâm Là Giữ Gìn Sinh Môi Một Cách Rộng Lớn

Nguồn Gốc Chiến Tranh

Hòa Giải

Hãy Gọi Đúng Tên Tôi

Khổ Đau Là Chất Liệu Nuôi Dưỡng Tình Thương

Tình Thương Qua Hành Động

Mười Bốn Giới Tiếp Hiện

Câu Chuyện Của Dòng Sông

Xây Dựng Thế Kỷ Hai Mươi Mốt

an lạc từng bước chân - ấn bản đặc biệt

an lạc từng bước chân - ấn bản đặc biệt

An Lạc Từng Bước Chân

“Hãy đi những bước chân như hôn vào mặt đất

Hãy đi những bước chân như vỗ về trái đất..."

Buổi sáng khi thức dậy, ta biết rằng ta có hai mươi bốn giờ trước mặt để sống. Đó là một món quà quý giá. Ta sống như thế nào để có an lạc và hạnh phúc trong suốt hai mươi bốn giờ, mà người khác cũng nhờ đó có an lạc và hạnh phúc.

An lạc có mặt trong ta ngay tại đây trong giờ phút này, trong mỗi vật và mỗi việc ta làm hay ta thấy. Vấn đề là ta có biết tiếp xúc với nó không. Bầu trời xanh ở ngay trước mắt ta, ta đâu cần phải đi đâu xa để thưởng thức trời xanh. Ta cũng không cần rời thành phố ta ở mới thấy được vẻ đẹp của đôi mắt trẻ thơ. Không khí trong lành ta thở đã có thể cho ta biết bao hạnh phúc rồi.

Ta hãy đi, đứng, thở, mỉm cười và ăn cơm như thế nào để luôn luôn được tiếp xúc với những mầu nhiệm quanh ta. Ta sắp đặt và chuẩn bị đời sống rất giỏi nhưng ta chưa giỏi trong cách sống. Ta có thể hy sinh mười năm trời để đạt cho được tấm bằng kỹ sư hay bác sĩ, ta sẵn sàng làm việc rất cực nhọc để có công ăn việc làm, để mua nhà, mua xe v.v. Nhưng ta quên rằng ta đang sống trong hiện tại và ta chỉ có thể thật sự sống trong giây phút hiện tại mà thôi.

Chỉ cần tỉnh thức thì mỗi hơi thở và mỗi bước chân là một nguồn an lạc, chúng cho ta

biết bao niềm vui và biết bao sự thanh thản.

Cuốn sách “An lạc từng bước chân” có thể được xem như tiếng chuông nhắc nhở ta rằng hạnh phúc đang có mặt. Ta biết rằng chuẩn bị cho tương lai cũng là một phần của sự sống nhưng sự chuẩn bị cũng nằm trong hiện tại.

Cùng với 3 chủ đề Hơi thở thở ý thức, hơi thở nhiệm mầu, Chuyển hóa và trị liệu, An lạc từng bước chân, nội dung cuốn sách “An lạc từng bước chân” của Sư ông Làng Mai mời ta quay về với hiện tại để tìm lại an lạc và hạnh phúc. Niềm vui có trong từng giây phút, ta gìn giữ và nuôi dưỡng những hạt giống tốt đẹp.

An lạc trong từng bước chân. Hãy nắm tay nhau và cùng bước từng bước chân thật vững chãi và thảnh thơi trên con đường dài.

Mục lục:

Phần 1: Hơi thở ý thức, hơi thở mầu nhiệm

Hai Mươi Bốn Giờ Tinh Khôi

Cây Bồ Công Anh Mỉm Cười Cho Tôi

Hơi Thở Ý Thức

Hiện tại: Giây Phút Nhiệm Mầu

Bớt Suy Nghĩ Lại

Nuôi Dưỡng Chánh Niệm Trong Từng Phút Giây

Ngồi Đâu Cũng Là Ngồi Thiền

Thiền Tọa

Chuông Chánh Điện

Chiếc Bánh Thời Thơ Ấu

Bí Tích Thánh Thể

Ăn Cơm Chánh Niệm

Rửa Chén

Thiền Hành

Thiền Điện Thoại

Thiền Lái Xe

Quay Về Một Mối

Cắt Cỏ Và Thở

Vô Nguyện

Đời Sống Là Một Tác Phẩm Nghệ Thuật

Hy Vọng, Trông Chờ Đôi Khi Là Một Trở Ngại

Bông Hoa Và Nụ Cười Ngài Ca Diếp

Phòng Thở

Cuộc Hành Trình Vẫn Tiếp Tục

Phần 2: Chuyển hóa và trị liệu

Dòng Sông Cảm Thọ

Không Cắt Bỏ

Chuyển Hóa Những Cảm Thọ

Ý Thức Về Cái Giận

Đập Gối Để Trút Cơn Giận

Thiền Hành Khi Đang Giận

Luộc Khoai

Nguồn Gốc Của Cơn Giận

Nội Kết

Sống Chung Hòa Hợp

Bàn Tay Của Bạn

Cha Mẹ

Giữ Gìn Và Nuôi Dưỡng Những Hạt Giống Tốt

Tiếp Xúc Với Những Gì Mầu Nhiệm

Trách Móc Không Giúp Được Gì

Hiểu Và Thương

Tình Thương Chân Thật

Từ Bi Quán

Thiền Ôm

Đầu Tư Vào Tăng Thân

Cháu Chắt Là Niềm Vui Của Ông Bà

Tăng Thân Tu Học

Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời

Phần 3: An lạc từng bước chân

Tương Tức

Hoa Và Rác

Vững Chãi Thảnh Thơi

Tinh Thần Bất Nhị

Chữa Trị Những Vết Thương Chiến Tranh

Trái Tim Mặt Trời

Nhìn Sâu

Nghệ Thuật Sống Tỉnh Thức

Nuôi Dưỡng Chánh Niệm

Bức Thư Tình

Bổn Phận Người Công Dân

Bảo Vệ Thân Tâm Là Giữ Gìn Sinh Môi Một Cách Rộng Lớn

Nguồn Gốc Chiến Tranh

Hòa Giải

Hãy Gọi Đúng Tên Tôi

Khổ Đau Là Chất Liệu Nuôi Dưỡng Tình Thương

Tình Thương Qua Hành Động

Mười Bốn Giới Tiếp Hiện

Câu Chuyện Của Dòng Sông

Xây Dựng Thế Kỷ Hai Mươi Mốt

nhật tụng thiền môn (tái bản 2024)

nhật tụng thiền môn (tái bản 2024)

Nhật Tụng Thiền Môn

Đã từ năm mươi năm nay, Phật tử Việt Nam, nhất là giới xuất gia, chờ đợi một cuốn Nhật Tụng Thiền Môn bằng Quốc Ngữ. Trong quá trình thực tập và hoằng pháp, tôi cũng đã từng nhiều lần cảm thấy nhu yếu cấp thiết này. Nay sách Nhật Tụng Thiền Môn của Đạo Tràng Mai Thôn được ấn hành, tôi hết sức vui mừng và xin trân trọng giới thiệu với các giới hành giả khắp nơi trong toàn quốc.

Sách Nhật Tụng Thiền Môn mà quý vị đang nâng trên tay quả là một pháp bảo, quý giá vô cùng. Các vị giáo thọ của Đạo Tràng Mai Thôn đã để ra mười lăm năm để soạn tập, phiên dịch và xây dựng lên nó. Văn dịch sáng sủa và đẹp đẽ, diễn đạt được ý kinh một cách rõ ràng và tự nhiên, rất dễ tụng đọc. Các kinh điển được chọn lọc trong kinh tạng lại là những kinh tiêu biểu và căn bản, kinh nào cũng thiết yếu cho công phu hành trì của người xuất gia. Những bài kệ tán và xướng tụng hay nhất trong sách Nhật Tụng Thiền Môn cũ đều đã được phiên dịch rất khéo léo, thêm vào đó còn có rất nhiều bài kệ tán, phát nguyện và sám nguyện mới rất thích hợp với căn cơ và thời đại.

Sách Nhật Tụng Thiền Môn này nếu được đem ra áp dụng sớm sẽ tạo ra rất nhiều sinh khí mới cho thiền môn và mở ra một kỷ nguyên mới cho sự thực tập.

bộ nhật tụng thiền môn giảng giải - công phu nở đóa sen ngàn cánh - tập 2 - công phu ngày thứ ba - bìa cứng

bộ nhật tụng thiền môn giảng giải - công phu nở đóa sen ngàn cánh - tập 2 - công phu ngày thứ ba - bìa cứng

Nhật Tụng Thiền Môn Giảng Giải - Công Phu Nở Đóa Sen Ngàn Cánh - Tập 2 - Công Phu Ngày Thứ Ba - Bìa Cứng

Bộ sách Công Phu Nở Đóa Sen Ngàn Cánh cống hiến việc giới thiệu và luận giải một cách tỉ mỉ các kinh văn, nghi thức được trình bày trong sách Nhật Tụng Thiền Môn đã lưu hành, lần lượt cho bảy ngày trong tuần, gồm những nội dung của hai thời công phu sáng chiều.

Tập 2 của bộ sách - Công Phu Ngày Thứ Ba tiếp tục việc phân tích, giảng giải các kinh tiêu biểu được trì tụng trong ngày thứ Ba gồm: Kinh Quán niệm hơi thở, Kinh Sức mạnh Quan Âm, Kinh Tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân; bên cạnh các kinh kệ thường nhật như Chuyển niệm, Quay về nương tựa, Ngày đêm an lành,... Bên cạnh đó, sách cũng bổ sung thêm phần phụ lục nguồn gốc kinh văn với nhiều thứ tiếng và những chỉ dẫn thực tập khác. Tin rằng đây là bộ sách ứng dụng thực tập bổ ích cho cả hai giới xuất gia và tại gia tu tập.

“Công phu là sự thực tập, là sự rèn luyện hằng ngày của chúng ta. Hễ có tu là có chứng, có rèn luyện là có thành công. Nhờ sự thực tập đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, thở, làm việc,… chúng ta đưa công phu của mình lên tới một mức độ nào đó, có thể làm cho ta từ một con người nở ra thành một đóa sen. Đóa sen không chỉ nở một cánh mà nở ra hai cánh, ba cánh, bốn cánh, ngàn cánh rất mầu nhiệm. Chỉ cần duy trì công phu của mình cho tinh chuyên, ta có thể làm cho đóa sen nở ra ngàn cánh, không chỉ ở đây mà ở khắp nơi; không phải trong những thời gian khác nhau mà là đồng thời. Cùng với tăng thân, chúng ta có khả năng làm cho những đóa sen ấy nở tươi từng giây từng phút.” — Thích Nhất Hạnh

“Các con hãy tự nuôi dưỡng mình bằng hỷ và bằng lạc. Đó là lời của đức Thế Tôn đã dạy. Khi trở về với lĩnh vực cảm thọ, ta phải thực tập làm sao để có thể nuôi dưỡng ta trong mỗi giây, mỗi phút bằng hỷ thọ và lạc thọ. Nếu ta không nuôi dưỡng được mình bằng hai cảm thọ đó, ta không thể đi xa trên bước đường thực tập. Cho nên bài tập hỷ và lạc đi trước, còn những nỗi đau, vướng mắc thì ta sẽ xử lý sau. Hỷ và lạc là những gì ta có thể chế tác được. Đó là tuệ giác của Bụt.” (Trích Kinh Quán niệm hơi thở)

tay thầy trong tay con (tái bản 2024)

tay thầy trong tay con (tái bản 2024)

Tay Thầy Trong Tay Con

Trong kinh Lăng Nghiêm, ở chương Đại Thế Chí Niệm Phật, ta được học rằng trong khi mẹ nhớ con và đi tìm con, nếu con cũng nhớ mẹ và đi tìm mẹ thì thế nào mẹ và con cũng tìm được nhau và hai mẹ con sẽ không bao giờ xa nhau. Điều này cũng đúng với liên hệ thầy và đệ tử: nếu thầy có chủ tâm đi tìm đệ tử trong khi đệ tử cũng có chủ tâm đi tìm thầy thì chắc chắn là thầy và đệ tử sẽ gặp nhau. Thầy tìm được con thì thầy nắm tay con để đi trên con đường thực tập, con trở thành thầy và thầy có trong con. Và như thế trong tay con đã có tay thầy.

Bài kệ xưng tán Pháp Hoa như sau:

Đêm tụng kinh Pháp Hoa

Tiếng xao động tinh hà

Địa cầu vừa tỉnh giấc

Lòng đất bỗng đơm hoa

Đêm tụng kinh Pháp Hoa

Bảo tháp hiện chói lòa

Khắp trời Bồ tát hiện

Tay Bụt trong tay ta

Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt. Ta và Bụt bất nhị. Lúc ấy thì hạnh phúc ta rất lớn.

Tay Thầy trong tay con - tuyển tập những lá thư thầy viết cho đệ tử. Mỗi lá thư là một chứng tích của tình Thầy, chứa đựng trọn vẹn những gì Thầy muốn trao truyền. Những lá thư ấy không bị giới hạn bởi thời gian, chúng có giá trị miên viễn. Do vậy không thể xếp theo trình tự thời gian để ta có thể đón nhận mỗi lá thư trong một hình thức rất mới, nội dung trao truyền được sống dậy trong thời khắc mà ta đang đọc.

Trong sách chúng ta còn tiếp xúc được những thông bạch mà Thầy đã gởi đi trong những năm qua, mỗi thông bạch như những khuôn thước nền tảng thực tập. Và phần cuối là “Câu chuyện người con trai khờ dại” được Thầy viết tại Phương Bối - Bảo Lộc, Lâm Đồng năm 1961. Đọc câu chuyện để ta cảm thêm sự rộng lớn của tình Thầy qua những lá thư. Chúng ta thấy người con trai trong câu chuyện là một người rất thật, và cho đến nay chưa một lần từ chối làm người “khờ dại” cho tình thương.

Chúng ta cùng đón nhận “mối tình” rất đẹp này và giữ riêng cho mình những gì rất gần, để cùng hiểu, cùng thương và cùng hiến tặng.

nẻo về của ý (tái bản 2024)

nẻo về của ý (tái bản 2024)

Nẻo Về Của Ý

Đọc Nẻo Về Của Ý ta như được thưởng thức một bài thơ tuyệt đẹp, trong bài thơ ấy hiện lên những nét vẽ đầy thơ mộng về cảnh núi rừng, ở trong đó cũng chứa đựng nguồn tuệ giác thâm sâu có được từ chính những trải nghiệm trong cuộc đời thực của tác giả với những nhân vật có thực. Bằng một ngòi bút nhẹ nhàng, khoáng đạt, đầy yêu thương, tác giả nắm tay ta cùng bước trên những thảm cỏ xanh quanh chân núi rồi từng bước một, cùng ta đi rất thảnh thơi, an lạc theo vòng xoắn ốc lên tới tận đỉnh núi. Trên đường đi ngập tràn những kỳ hoa dị thảo, người bộ hành vừa đi vừa chơi, vừa thưởng thức những vẻ đẹp xung quanh và khi lên tới nơi mới ngỡ ngàng là mình đang ở trên đỉnh núi, vui sướng, khỏe nhẹ và bình an.

Đọc Nẻo Về Của Ý ban đầu ta thấy thích thú với những chuyện kể đời thường, vừa bình dị vừa sống động và dí dỏm. Qua những cái bình dị đời thường ấy, tác giả đã chỉ cho ta thấy ánh sáng chói ngời của chân lý tối thượng.

Cuốn sách này sau khi được cô Mobi Warren dịch ra tiếng Anh đã được các độc giả Tây Phương đón nhận một cách nồng nhiệt. Chỉ trong vòng năm năm, từ khi cuốn sách được dịch ra tiếng Anh, nó đã được dịch ra 12 thứ tiếng khác, tính đến nay nó đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Cô Rachel Neuman, biên tập viên của nhà xuất bản Parallax, trong lúc ngồi trên máy bay từ New York tới San Francisco đã đọc hết bản dịch của cuốn Nẻo Về Của Ý và nói đây là tác phẩm cô yêu thích nhất của tác giả Thích Nhất Hạnh.

bông hoa vàng trong cỏ

bông hoa vàng trong cỏ

Bông Hoa Vàng Trong Cỏ

Bông Hoa Vàng Trong Cỏ là tập thơ do Sư Ông Thích Nhất Hạnh viết tặng các em thiếu nhi vào năm 1992. Cuốn sách do các sư cô của Làng Mai chuyển ngữ và vẽ minh họa.

Khi biết cách thương thì càng thương càng hạnh phúc và càng có khả năng làm nhiều người hạnh phúc. Vì vậy, các sư cô mong muốn thông qua nét vẽ hiền hòa của sư cô Trăng Tuyết Hoa và nét chữ uyển chuyển của sư cô Định Nghiêm, cuốn sách Bông Hoa Vàng Trong Cỏ sẽ lan tỏa tình yêu thương của Bụt và Sư Ông dành cho các em thiếu nhi, trao cho các em thái độ sống hiền hòa với thiên nhiên muôn loài và trân trọng mỗi giây phút hiện diện trên đời.

---

“Sư Ông Làng Mai (Thiền sư Thích Nhất Hạnh) viết bài thơ này cho các em thiếu nhi vào năm 1992, và ngay sau đó, Sư Ông lại phổ nhạc để cho các em hát.

Em có biết là Bụt thương em không? Em có biết là Sư Ông cũng thương em không?

Khi còn là một thầy tu trẻ ở độ tuổi hơn hai mươi, Sư Ông đã thương yêu, chăm sóc và dạy dỗ các thiếu nhi và thành lập các đoàn thiếu nhi Phật Tử. Sau này sống ở phương Tây, Sư Ông là vị thầy đầu tiên mở các khóa tu dành cho thiếu nhi. Trung tâm tu học Làng Mai mà Sư Ông thành lập ở Pháp cũng là nơi đầu tiên đón nhận đông đảo thiếu nhi về tu học chung với các phụ huynh. Các em đã được Sư Ông giảng cho những bài pháp riêng, được Sư Ông nắm tay đi thiền hành, được ngồi chơi với Sư Ông. Các em hạnh phúc đã đành mà các bậc phụ huynh còn hạnh phúc nhiều hơn nữa khi thấy con em mình được tắm trong tình thương của Sư Ông.

Khi biết cách thương thì càng thương càng hạnh phúc và càng có khả năng làm cho nhiều người hạnh phúc. Vì vậy để lan toả tình thương của Sư Ông, hai sư cô Định Nghiêm và Trăng Tuyết Hoa đã chung tay làm nên cuốn sách này chỉ với một mong muốn là các em thiếu nhi vẫn tiếp tục được tiếp nhận tình thương của Bụt và của Sư Ông. Ngoài ra, Sư Ông từng nói rất thích nét vẽ hiền hòa của sư cô Trăng Tuyết Hoa và đã khuyến khích sư cô vẽ chuyện tranh cho các em thiếu nhi, và với sư cô Định Nghiêm, Sư Ông cũng từng nói rất thích nét chữ đơn giản, rõ ràng của sư cô và thường để sư cô điền điệp hộ giới cho Sư Ông, do đó, hai sư cô có thêm mạnh dạn đi trên con đường viết truyện tranh này.”

- Sư cô Chân Không

Chùa Từ Nghiêm, Xóm Mới, ngày 8 tháng Giêng năm 2024

Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

Liên Hệ