Van Hoa Qua Kien Truc Nha O

Van Hoa Qua Kien Truc Nha O

Văn Hóa Qua Kiến Trúc Nhà Ở

TẠI SAO KIẾN TRÚC NHÀ Ở LẠI PHẢN ÁNH MỘT NỀN VĂN HÓA?

- Khi nhắc đến kiến trúc, chúng ta thường nghĩ đến các công trình mang tính biểu tượng: nhà thờ, cung điện, bảo tàng… Nhưng phần lớn đời sống con người diễn ra trong những ngôi nhà ở – không lộng lẫy nhưng lại là nơi thể hiện rõ nhất những giá trị, niềm tin và lựa chọn văn hóa của mỗi cộng đồng.

- Trong cuốn sách kinh điển này, Amos Rapoport – một trong những người tiên phong nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và kiến trúc – đưa ra một hướng tiếp cận mới mẻ: nhìn kiến trúc không chỉ như một ngành kỹ thuật, mà là một dạng biểu hiện văn hóa sâu sắc.

CUỐN SÁCH “VĂN HÓA QUA KIẾN TRÚC NHÀ Ở” CÓ GÌ ĐẶC BIỆT?

- Phân tích cách con người từ khắp nơi trên thế giới tạo dựng nên ngôi nhà của mình, không chỉ dựa vào khí hậu hay vật liệu, mà còn dựa vào truyền thống, tín ngưỡng, cách sống và cấu trúc xã hội.

- Trình bày rõ ràng, dễ hiểu, dù là một công trình học thuật liên ngành – giao thoa giữa kiến trúc, địa lý văn hóa, nhân học, lịch sử, quy hoạch đô thị…

- Từ lều cỏ của người du mục, nhà sàn ở Đông Nam Á, đến các khu định cư đô thị truyền thống – mỗi kiểu nhà đều là một tấm gương soi chiếu cách một nền văn hóa hình dung về không gian sống lý tưởng.

CUỐN “SÁCH VĂN HÓA QUA KIẾN TRÚC NHÀ Ở” DÀNH CHO AI?

- Những ai quan tâm đến văn hóa, bản sắc, lịch sử không gian sống

- Sinh viên, giảng viên và người làm việc trong ngành kiến trúc, quy hoạch, nhân học, bảo tồn di sản

- Người yêu sách học thuật, nghiên cứu sâu nhưng muốn tiếp cận một cách rõ ràng, có hệ thống

“Truyền thống dân gian là sự chuyển hóa trực tiếp và tự nhiên của một nền văn hóa – cùng với những nhu cầu, giá trị, khát vọng, giấc mơ và đam mê của cộng đồng – thành hình thức vật chất.”

– Amos Rapoport

Nghe Thuat Tao Hinh Va Nghe Thuat Dien Xuong Trong Van Hoa Dan Gian Nguoi Viet Thoi Trung Dai

Nghe Thuat Tao Hinh Va Nghe Thuat Dien Xuong Trong Van Hoa Dan Gian Nguoi Viet Thoi Trung Dai

Nghệ Thuật Tạo Hình Và Nghệ Thuật Diễn Xướng Trong Văn Hóa Dân Gian Người Việt Thời Trung Đại

Trong cuốn sách đồ sộ này, tác giả mang đến một cái nhìn toàn diện và chuyên sâu về hai mảng nghệ thuật quan trọng trong đời sống văn hóa người Việt: nghệ thuật tạo hình (kiến trúc, điêu khắc, tranh dân gian, gốm sứ…) và nghệ thuật diễn xướng (ca trù, hát văn, chèo, tuồng, múa rối nước…). Các di sản này được phân tích, lý giải trong mối quan hệ với tín ngưỡng, sinh hoạt cộng đồng và tiến trình lịch sử – tạo nên một bức tranh sống động, đầy chiều sâu về văn hóa trung đại Việt Nam.

Điểm đặc biệt của cuốn sách không chỉ nằm ở khối lượng tư liệu phong phú mà còn ở phương pháp tiếp cận liên ngành hiện đại. Tác giả vận dụng kết quả nghiên cứu từ các lĩnh vực: mỹ thuật, dân tộc học, âm nhạc học, văn bản học Hán Nôm… để phục dựng lại một không gian nghệ thuật dân gian nguyên bản, vừa gần gũi, vừa uyên bác.

Từ chùa Một Cột, chùa Phật Tích đến tháp Bình Sơn, chùa Phổ Minh – từ tranh Đông Hồ, Hàng Trống đến gốm Bát Tràng, Phù Lãng – từ các điệu hát ả đào, hát văn, tích trò chèo đến những con rối nước… tất cả được mô tả chi tiết, sâu sắc và đầy cảm hứng. Mỗi trang sách là một hành trình khám phá văn hóa, là lời nhắc nhở về việc gìn giữ và phát huy những giá trị bản sắc đã từng làm nên tinh thần Việt qua bao thế kỷ.

Đây là một ấn phẩm không thể thiếu dành cho những ai đang làm việc trong lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật – giáo dục, cho giới nghiên cứu dân gian và cho tất cả những ai yêu mến cội nguồn văn hóa Việt.

Khong Gian Tam Linh Cua Nguoi Ha Noi

Khong Gian Tam Linh Cua Nguoi Ha Noi

Không Gian Tâm Linh Của Người Hà Nội

Có một Hà Nội tấp nập, có một Hà Nội tụ hội một cộng đồng dân cư đa dạng với nhiều dấu ấn tâm linh. Không gian thiêng nói riêng và đời sống tâm linh của người Hà Nội nói chung, từ đó, trở thành những bí ẩn cần thôi thúc được khám phá. Và cuốn sách “KHÔNG GIAN TÂM LINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI” sẽ giúp bạn giải đáp nhiều câu hỏi trên hành trình này.

“Tâm thức tôn giáo sẽ quay trở lại và thế kỷ XXI ít nhất cũng là thế kỷ của tâm linh” (A. Malreaux, 1989). Chúng ta đã đi qua gần 1/4 thế kỷ này và rõ ràng dự đoán trên hoàn toàn có giá trị thực tiễn. Gắn điều ấy vào đời sống đang chảy trôi của người dân Hà Nội, chúng ta dần nhận ra rằng “trên mảnh đất ngàn năm văn vật” có rất nhiều điều cần bàn luận, khi các không gian thiêng dường như là những gì rất quen thuộc và đặc biệt.

Từ những thế kỷ trước, công cuộc nghiên cứu về văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt, hay đặc biệt là người dân Thăng Long - Hà Nội đã được nhiều học giả trong và ngoài nước ghi chép, nghiên cứu. Nhưng vẫn còn đó những khía cạnh chưa được đề cập, và ấn phẩm “KHÔNG GIAN TÂM LINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI” sẽ là những trang sách góp phần lấp đầy khoảng trống đó. Cụ thể, lần đầu tiên, bạn đọc có thể hiểu được đầy đủ hơn không chỉ tiến trình lịch sử các tôn giáo, những biến thể của các hình thức tín ngưỡng, mà còn là đời sống tôn giáo (La vie religieuse). Cùng với đó, là những hình ảnh sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, cũng như hình ảnh cụ thể của các “nhân vật” tôn giáo ở Thăng Long - Hà Nội.

Có một Hà Nội tấp nập, có một Hà Nội tụ hội một cộng đồng dân cư đa dạng với nhiều dấu ấn tâm linh. Không gian thiêng nói riêng và đời sống tâm linh của người Hà Nội nói chung, từ đó, trở thành những bí ẩn cần thôi thúc được khám phá. Và cuốn sách “KHÔNG GIAN TÂM LINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI” sẽ giúp bạn giải đáp nhiều câu hỏi trên hành trình này.

Nhu Mot Ton Giao Khac - Mot Nghien Cuu Ve Tinh Hien Dai Va Ton Giao Hien Nay

Nhu Mot Ton Giao Khac - Mot Nghien Cuu Ve Tinh Hien Dai Va Ton Giao Hien Nay

Như Một Tôn Giáo Khác - Một Nghiên Cứu Về Tính Hiện Đại Và Tôn Giáo Hiện Nay

Trong bối cảnh Việt Nam không ngừng hội nhập và phát triển, mối quan hệ giữa tôn giáo và tính hiện đại ngày càng trở nên phức tạp và đáng suy ngẫm. Cuốn sách Như một tôn giáo khác – Một nghiên cứu về tính hiện đại và tôn giáo hiện nay của GS.TS. Đỗ Quang Hưng chính là lời mời gọi độc giả cùng nhìn lại hành trình biến chuyển sâu sắc của đời sống tôn giáo dưới tác động của tiến trình hiện đại hóa – một đề tài vừa gần gũi, vừa đầy thách thức.

Là một nhà nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực tôn giáo học, tác giả không chỉ cung cấp những khái niệm cơ bản mà còn đi sâu vào việc lý giải sự tương tác giữa tính hiện đại và các tôn giáo lớn tại Việt Nam, với trọng tâm là Công giáo, Phật giáo và Tin lành. Qua lăng kính phân tích sắc sảo, cuốn sách phác họa một bức tranh sinh động về cách các tôn giáo này phản ứng, thích nghi, thậm chí chuyển mình để hội nhập vào đời sống xã hội hiện đại mà không đánh mất căn tính tinh thần của mình.

Điểm đặc biệt của tác phẩm là sự đan xen giữa yếu tố lý luận và thực tiễn. GS.TS. Đỗ Quang Hưng không chỉ khảo sát các chuyển biến tôn giáo dưới tác động của chính sách đổi mới từ cuối những năm 1990, mà còn chỉ ra cách các tổ chức tôn giáo lớn đang từng bước trở thành nguồn lực xã hội tích cực – điều đã được khẳng định trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước.

Với lời văn súc tích, học thuật nhưng vẫn dễ tiếp cận, Như một tôn giáo khác mở ra một cuộc đối thoại nghiêm túc về vai trò, thách thức và cơ hội của tôn giáo trong xã hội hiện đại. Cuốn sách không chỉ dành cho giới nghiên cứu, sinh viên ngành khoa học xã hội – nhân văn, mà còn phù hợp với độc giả quan tâm đến tôn giáo, văn hóa và tiến trình phát triển đất nước.

Trong dòng chảy hiện đại hóa không ngừng, tôn giáo không đơn thuần chỉ là “một hệ thống đức tin”, mà còn là một thực thể sống động, tương tác, biến chuyển – “như một tôn giáo khác”, như chính nhan đề đầy gợi mở của cuốn sách này.

Như một tôn giáo khác là một công trình học thuật nghiêm túc, tâm huyết và mang giá trị tham chiếu cao – một hành trang không thể thiếu cho bất kỳ ai đang tìm kiếm hiểu biết sâu sắc về tôn giáo trong thời đại mới.

các thương cảng ven biển bắc trung bộ thế kỷ x - xix

các thương cảng ven biển bắc trung bộ thế kỷ x - xix

Cuốn sách “Các thương cảng ven biển Bắc Trung Bộ thế kỷ X - XIX” của tác giả Nguyễn Văn Chuyên được phát triển từ luận án Tiến sĩ Sử học của chính tác giả, bảo vệ tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội vào năm 2018. Luận án có tầm cỡ một công trình nghiên cứu chuyên sâu không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn thiết thực đóng góp vào công cuộc nghiên cứu phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và an ninh vùng Bắc Trung Bộ của Tổ quốc.

Điểm nổi bật của cuốn sách mà người đọc dễ dàng nhận thấy là tính phong phú chuyên sâu của công trình với gần 500 lời dẫn chú thích rút ra từ hơn 250 nguồn tư liệu tham khảo tin cậy, bao gồm cả thư tịch cổ cũng như tài liệu thực địa, đặc biệt phần phụ lục chứa nhiều văn bản và bản đồ cổ hiếm quý, thể hiện tinh thần lao động nghiêm túc, công phu trong khoảng thời gian tương đối dài của người nghiên cứu.

Như một lữ khách trong chuyến du lịch văn hóa - sinh thái trên những trang sách, người đọc có thể dừng lại, theo dõi và thưởng thức những cảnh quan, di tích lịch sử văn hóa, hoạt động kinh tế đến từng chi tiết hiếu kỳ và hấp dẫn của mỗi địa điểm, trong chuỗi 12 hải cảng được chọn lọc miêu tả ghi nhận từ 19 cửa sông, nằm dọc theo bờ biển vùng Bắc Trung Bộ, bao gồm 4 cảng thuộc tỉnh Thanh Hóa, 3 cảng thuộc tỉnh Nghệ An và 5 cảng thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Thực ra từ trước đến nay, đâu đó cũng đã từng có những địa chí, chuyên khảo mô tả về từng địa điểm hoặc từng nhóm địa danh trong cùng một địa phương. Nhưng có lẽ tác giả là người đầu tiên có tham vọng muốn kết nối tập hợp những cảng biển đó thành một cụm cảng, một chuỗi cảng để khảo sát và phân tích, qua từng thành tố riêng lẻ cũng như cấu trúc tổng thế. Đây có thể coi là một ý tưởng nghiên cứu mới lạ, đặc sắc.

Hy vọng rằng, cuốn sách sẽ mang đến cho quý vị độc giả những góc nhìn, những nhận thức mới về thương cảng Việt Nam trong lịch sử - một đề tài nghiên cứu phức tạp và thú vị.

nhà ở cổ truyền các dân tộc việt nam - bìa cứng

nhà ở cổ truyền các dân tộc việt nam - bìa cứng

Nhà Ở Cổ Truyền Các Dân Tộc Việt Nam - Bìa Cứng

Trong đời sống văn hóa của các dân tộc Việt Nam hay bất kỳ một dân tộc nào trên thế giới, vấn đề “Mặt bằng sinh hoạt” vẫn luôn là một chủ đề phức tạp nhưng đầy thú vị và được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Và bốn chữ “Mặt bằng sinh hoạt” đó cũng chính là kết quả nghiên cứu cả đời của PGS TS. Nguyễn Khắc Tụng khi ông dốc trọn tâm huyết khảo cứu về nhà ở truyền thống của các tộc người ở Việt Nam.

Vấn đề truyền thống – hiện đại vẫn diễn ra xuyên suốt trong chiều dài lịch sử. Những sự vật, hiện tượng hay cụ thể là nhà ở khi trải qua thời gian đều sẽ có sự biến đổi, và những điều biến đổi ấy đều sẽ dần trở nên “hiện đại”, để lại những nét xưa cũ với tên gọi là “truyền thống”. Tuy nhiên, để giữ được bản sắc dân tộc, để hiểu hơn về tinh hoa của thời đại, những người làm kiến trúc cần có được hiểu biết sâu sắc về những điều “truyền thống” ấy, để rồi kết hợp với “hiện đại”, nhằm tạo ra những công trình thật đặc biệt và mang tính lưu giữ văn hóa cao. Đây cũng là điều PGS. TS. Nguyễn Khắc Tụng mong muốn khi viết nên cuốn sách này.

Trong bối cảnh những năm 1978 khi tư liệu còn ít, chưa có độ chuyên sâu, chủ yếu vẫn còn là hình ảnh hoặc bài đăng ngắn trên các sách báo, tạp chí thì tác giả đã “lấp đầy” bằng những kiến thức chuyên sâu hơn, chuyên nghiệp hơn, bài bản hơn qua quá trình thực địa và phân loại của mình. Nhờ đó, cuốn sách Nhà Ở Cổ Truyền Các Dân Tộc Việt Nam đã khái quát thành công những đặc điểm cũng như giá trị của nhà ở cổ truyền của các dân tộc Việt Nam. Và theo như chia sẻ của PGS. TS. Vương Xuân Tình (Nguyên Viện trưởng Viện Dân tộc học) thì cuốn sách: “Không chỉ có giá trị về nghiên cứu văn hóa tộc người, mà còn gợi mở một hướng nghiên cứu liên ngành để phục vụ kiến trúc và xây dựng nhà ở của các dân tộc Việt Nam hiện nay”.

Vậy nhà ở cổ truyền của các dân tộc tại Việt Nam có những đặc điểm gì, từ người Hmông trên đỉnh núi cao bốn mùa mây phủ, người Sán Dìu trên đất trung du sỏi đá, người Thượng trên cao nguyên đất đỏ lồng lộng gió ngàn, cho đến người Việt, người Khơ-me trên những cánh đồng châu thổ thẳng cánh cò bay…

giáo dục pháp - việt ở bắc kỳ (1884-1945)

giáo dục pháp - việt ở bắc kỳ (1884-1945)

Giáo Dục Pháp - Việt Ở Bắc Kỳ (1884-1945)

Bằng cách kết hợp sử dụng các nguồn tài liệu khá phong phú, trong đó có những tài liệu chưa từng được khai thác trước đó, TS. Trần Thị Phương Hoa đã biên soạn nên cuốn sách “Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945)”.

Cuốn sách bàn về những đặc điểm lý luận và thực tiễn về sự hình thành và phát triển của giáo dục Pháp – Việt kiểu mới ở Việt Nam khi tư tưởng giáo dục phương Tây tràn vào nước ta theo gót chân thực dân Pháp, hàng loạt các trường học Pháp – Việt ở Bắc Kỳ được mở ra với những mục đích chính trị. Một số nhà lý luận giáo dục như Philip Albatch và Gail Kelly cho rằng: “trường học [thực dân] bị tách ra khỏi nền văn hóa bản địa về ngôn ngữ và các giá trị xã hội”. Thế nhưng, thực tiễn giáo dục Pháp – Việt ở Việt Nam lại cho thấy điều ngược lại.

Cuốn sách “Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945)” sẽ cung cấp cho bạn đọc thêm nhiều luận cứ và tài liệu để khẳng định vai trò quan trọng của các trí thức được đào tạo từ nhà trường Pháp – Việt không chỉ trong việc tiếp nhận một nền giáo dục hiện đại mà còn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

ở đông dương

ở đông dương

Ở Đông Dương

Tròn một năm Bộ sách Ký ức Đông Dương chính thức ra mắt bạn đọc, MaiHaBooks hân hạnh giới thiệu ấn phẩm cuối cùng trong bộ sách với tên gọi Ở Đông Dương (En Indochine) của nhà báo Gaston Donnet. Cuốn sách được thực hiện chuyển ngữ bởi nhóm dịch giả Ninh Thị Sinh, Cù Thị Dung và Ninh Xuân Thao.

Như bạn đọc đã biết, các ấn phẩm từng được giới thiệu trong Bộ sách thường đi sâu nghiên cứu, khai thác từng khía cạnh của nền kinh tế, văn hóa hay một khu vực cụ thể của Đông Dương như: "Các ty độc quyền ốc p.hi.ện và muối ở Đông Dương", "Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ từ 1884 đến 1918", "Ở Bắc Kỳ 1883 - 1885", "Lịch sử Nam Kỳ thuộc Pháp từ sơ khởi đến năm 1883", "Đường sắt Pháp ở Đông Dương và Vân Nam". Ở Đông Dương (En Indochine) thì hoàn toàn khác biệt.

Dưới con mắt của Gaston Donnet, xứ Đông Dương hiện dần lên với những khung cảnh sinh hoạt và đời sống tinh thần của người dân bản xứ rất đặc trưng cho tâm tính dân tộc được xây dựng trên nền tảng văn hóa Á Đông. Một Đông Dương bình yên và sống động mời gọi người Pháp đến khám phá, thỏa mãn ham thích phiêu lưu ở vùng đất mới.

Hơn 100 bức ảnh mô tả sinh hoạt của mọi tầng lớp, mọi giới cư dân khắp xứ Đông Dương được Gaston Donnet lựa chọn làm những chấm phá ấn tượng cho bức tranh hấp dẫn này, thể hiện ý tưởng thú vị của ông khi nhìn xứ Đông Dương bằng ánh mắt hóm hỉnh, vui tươi, tình yêu thiên nhiên và tâm hồn văn chương ưa phiêu lưu của người Pháp, cùng niềm đam mê khám phá văn hóa sinh hoạt, đời sống tinh thần, dân tộc học, ngôn ngữ học.

Chất liệu của cuốn sách rất chân thực, được rút ra từ cuộc hành trình đi qua nhiều vùng đất ở Đông Dương của chính tác giả. Gaston Donnet khá tinh tế khi đan xen thể hiện các quan điểm cá nhân của bộ óc khi thì của một triết gia, khi của một nhà văn, khi của một nhà dân tộc học nhằm biến cuộc khám phá xứ Đông Dương không chỉ đơn thuần là một cuộc du lịch mà còn là cuộc hành trình đi vào đời sống văn hóa, tinh thần của các dân tộc ở Đông Dương. Những sử liệu này có thể được coi là những “tư liệu điền dã”, tham khảo cho những đánh giá khoa học về sự biến đổi của Đông Dương dưới tác động của chính sách cai trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.

Nhìn tổng thể, Ở Đông Dương là một tác phẩm chứa đựng nhiều nội dung phong phú, dễ đọc và dễ cảm, là một kênh truyền tải thông tin giúp bạn đọc có thêm những hiểu biết về một giai đoạn lịch sử quan trọng của Đông Dương nói chung và lịch sử Việt Nam nói riêng.

kiến trúc champa trong lịch sử

kiến trúc champa trong lịch sử

Kiến trúc đền tháp Champa là một loại hình kiến trúc tôn giáo đặc sắc, một di sản chứa nhiều giá trị để góp phần tìm hiểu nền văn hóa Champa trong lịch sử. Sự kỳ vĩ, vẻ đẹp thanh tú, hài hòa của hình khối, sự nuột nà, tinh tế trong điêu khắc trên mỗi công trình là sức hút hấp dẫn nhiều thế hệ học giả hơn một thế kỷ nay quan tâm nghiên cứu.

️Kế thừa những kết quả nghiên cứu trong các công trình đã công bố về kiến trúc Champa, hai nhà khảo cổ học Lê Đình Phụng và Phạm Văn Triệu ra mắt bạn đọc cuốn sách Kiến trúc Champa trong lịch sử – Architecture of Champa in History.

Với công trình này, trải qua nhiều năm nghiên cứu, các tác giả đã dành công sức chỉnh lý nhiều nhận thức về kiến trúc đền tháp Champa trong các công trình đã công bố, đồng thời, bổ sung nhiều tư liệu mới, cập nhật các kết quả khai quật và nghiên cứu trong những năm gần đây. Chuyên khảo Kiến trúc Champa trong lịch sử cũng cung cấp nhiều nhận thức mới về các di sản kiến trúc đặc biệt này. Cuốn sách tập hợp, thống kê, khảo tả những kiến trúc Champa theo lịch đại và không gian các vùng đất từ Bắc xuống Nam một cách logic, chặt chẽ cộng với một văn phong nhuần nhị và mượt mà cuốn hút người đọc vào cuộc hành trình khám phá những bí ẩn kiến trúc và văn hóa Champa dọc chiều dài đất nước.

phủ biên tạp lục

phủ biên tạp lục

“Phủ biên tạp lục” là một công trình sử học – địa chí về vùng đất Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn, từ 1558-1775. Đó là một khảo cứu có giá trị của nhà bác học Lê Quý Đôn, được ông biên soạn tập trung trong năm 1776, khi đang làm Hiệp trấn phủ, Tham tán quân cơ tại Huế; đã được Ngô Thì Sĩ viết lời bạt ngợi ca năm 1777.

Tài liệu cơ bản mà Lê Quý Đôn sử dụng để biên soạn Phủ biên tạp lục, ngoài các sách sử ký, địa chí, còn là các văn bản hành chính, thuế khóa, ruộng đất, binh chế, học chế, thơ văn dưới các đời chúa Nguyễn. Ông còn sử dụng tư liệu nhân chứng sống của các viên chức cũ và ông đã trực tiếp đi thực tế tìm hiểu địa thế, di tích, thu thập tư liệu mọi mặt.

Bản dịch bổ chính Phủ biên tạp lục của nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh được MaiHaBooks tái bản lần này đã đóng góp vào việc hoàn thiện một danh sách làng xã, thôn ấp, phường giáp, trang trại thuộc các tổng, huyện, phủ của 2 xứ Thuận Hóa và Quảng Nam vào cuối thời chúa Nguyễn; cung cấp những hiểu biết xác đáng về các làng nghề, các địa phương tại Đàng Trong; đính chính những sai lầm về địa danh của các bản dịch trước đây. Điều đó góp phần phát huy hiệu quả sử dụng của Phủ biên tạp lục.

Đặc biệt, trong lần tái bản này, MaiHaBooks đã bổ sung nội dung bản chữ Hán Phủ biên tạp lục được lưu trữ tại Centre National de la recherche scientifique – Paris (Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học – Paris), ký hiệu lưu trữ là: 8453-6. Microfilme le 1175, có đóng dấu tên Henri Maspéro (có lẽ đây là bản mà Henri Maspéro cho tiến hành sao chép đầu thế kỷ XX khi nghiên cứu về miền Trung Việt Nam nên có đóng dấu của ông). Đây là bản Phủ biên tạp lục đầy đủ gồm 6 quyển, với đủ các chương mục, trong đó ở cuối quyển 1 có bản danh sách tên, số lượng phủ, huyện, tổng, xã, thôn, trang, trại ở hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam.

Với những nội dung đã điều chỉnh, bổ sung, MaiHaBooks hi vọng sẽ cung cấp cho bạn đọc những tài liệu hữu ích phục vụ việc tìm hiểu, nghiên cứu vùng đất Đàng Trong, đặc biệt là xứ Thuận Hoá và Quảng Nam vào cuối thời chúa Nguyễn.

song mỹ lương duyên

song mỹ lương duyên

Xưa nay, tình yêu luôn là đề tài thu hút được nhiều sự chú ý trong các cuộc bàn luận. Mỗi người sẽ đều có một câu chuyện ái tình riêng, nhưng chắc chắn ai cũng mong muốn có một cái kết hạnh phúc cho chuyện tình của mình. Còn gì đẹp hơn một mối tình “Lưỡng tình tương duyệt”, cả hai cùng kiên định đi hết con đường trắc trở để kiếm tìm chân tình phút cuối.

Ấn phẩm Song mỹ lương duyên chúng tôi giới thiệu đến quý độc giả lần này chính là một câu chuyện như thế. Nội dung của cuốn sách có thể được gói gọn trong 4 câu thơ:

Nhân duyên âu cũng bởi trời,

Tốt duyên lại chọn mặt người trung lương.

Gớm thay những kẻ vô thường,

Gian mưu nào có ra tuồng chi đâu.

Vậy chuyện tình giữa công tử Lưu Dạ Lan với hai tiểu thư Bào Hương Vân và Phượng Thư diễn ra thế nào? Họ đã phải trải qua những thử thách gì? Cuối cùng ai sẽ đẹp duyên cùng ai? Câu chuyện có thật sự như lời tác giả đã đánh giá trong lời giới thiệu về cuốn sách:

“Truyện Song mỹ lương duyên này, dẫu tả về ái tình thiếu nữ, song tả rất quang minh chính đại, không chút cẩu thả nào; vả lại khi tan khi hợp, tiếng khóc câu cười, đều những chuyện trung hiếu tiết nghĩa cả”.

Quý độc giả hãy tìm đọc và trải nghiệm nhé!

hệ thống phòng thủ miền trung dưới triều nguyễn

hệ thống phòng thủ miền trung dưới triều nguyễn

Dưới thời Nguyễn, miền Trung chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu. Sự an toàn của các tỉnh miền Trung ảnh hưởng trực tiếp đến sự an toàn của kinh đô Huế và vương triều Nguyễn. Nhận thức được điều đó, nhà Nguyễn đã cho xây dựng ở miền Trung một hệ thống chiến lược quốc phòng tương đối vững chắc bao gồm hệ thống phòng thủ cảng biển và biển đảo; hệ thống các doanh điền và sơn phòng miền núi. Hệ thống phòng thủ chiến lược ấy không chỉ có tác dụng về bảo vệ an ninh quốc phòng, chống giặc ngoại xâm mà còn có ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế và trên thực tế đã phát huy tác dụng trong lịch sử.

“Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn” là công trình nghiên cứu khoa học, nghiêm túc của Phó Giáo sư Tiến sĩ Sử học Đỗ Bang. Nội dung sách đề cập đến hai vấn đề chính là: hệ thống công trình phòng thủ vùng biển và hệ thống công trình phòng thủ vùng núi được xây dựng ở miền Trung Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1802 đến năm 1885. Trong đó, tác giả tập trung nghiên cứu vào các công trình xây dựng có chức năng phòng thủ nhằm chống giặc ngoại xâm hơn là chức năng trấn áp của hệ thống đồn lũy ở miền núi mà tiêu biểu nhất là Tỉnh Man trường lũy.

Bố cục sách bao gồm 3 chương:

Chương 1. Vị trí chiến lược của các tỉnh miền Trung dưới triều Nguyễn (1802 – 1885).

Chương 2. Hệ thống công trình phòng thủ vùng biển.

Chương 3. Hệ thống công trình phòng thủ vùng núi.

mỹ thuật thời mạc

mỹ thuật thời mạc

Mỹ Thuật Thời Mạc

Để tiến tới biên soạn bộ lịch sử mỹ thuật Việt Nam, trong nhiều năm qua, Viện Mỹ thuật chúng tôi đã lần lượt tổ chức viết và cho công bố các tập Mỹ thuật thời Lý (1973), Mỹ thuật thời Trần (1977) Mỹ thuật thời Lê Sơ (1978) và Mỹ thuật Huế (1992). Nam trong chương trình chung đó, công trình Mỹ thuật thời Mạc cũng đã được hoàn thành bản thảo từ năm 1985. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau, đến nay cuốn sách mới ra mắt bạn đọc được.

Cũng như các tập trước, công trình Mỹ thuật thời Mạc là tập hợp các bài viết về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, trang trí và gốm mà tác giả là những cán bộ của Viện.

Mở đầu là một bài viết khái quát về mỹ thuật thời Mạc. Tác giả đưa ra những nhận định, đánh giá chung về nền mỹ thuật, thời này cũng như qủa trình nhận diện và định vị nó trong lịch sử mỹ thuật.

Tiếp theo là phần viết về nghệ thuật kiến trúc thời Mạc. Tác giả đã sử dụng tư liệu điển dã kết hợp với tư liệu thư tịch mà ở đây chủ yếu là các bia kí, để cổ gắng dựng lên bộ mặt của nền kiến trúc đương thời. Sau khi nêu lên vài nét bối cảnh xã hội, tác giả trình bày tiếp dưới các tiêu đề mỹ thuật cung đình, mỹ thuật ở các địa phương và dừng lại khá kỹ Ở phần sau vì nơi đây còn lại khá nhiều dấu vết kiến trúc và trong đó được chú ý nhiều là chùa làng và đặc biệt hơn nữa là đình làng, một loại hình kiến trúc còn mang đậm dấu ấn bản địa. Kết thúc, tác giả có đưa ra một số nhận định đánh giá chung.

Phần tiếp là viết về tượng tròn thời Mạc. Sau khi nêu lên tình hình chung về điêu khắc thời này, tác giả đã để cập đến các loại tượng thờ nhà ở đây chủ yếu là các tượng Phật như tượng Tam thế, tượng Quan âm, tượng tử pháp, tượng Ngọc hoàng và các tượng hậu. Tiếp theo là các tượng gắn liền với kiến trúc và tượng các linh thú. Kết thúc bài, tác giả nêu lên một vài nhận xét ngắn gọn.

nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc - biểu tượng và ngôn ngữ đông sơn

nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc - biểu tượng và ngôn ngữ đông sơn

Nguồn Gốc Và Sự Phát Triển Của Kiến Trúc - Biểu Tượng Và Ngôn Ngữ Đông Sơn

Hành trình đi tìm hằng số kiến trúc cổ Đông Nam Á…

Xuất phát từ hình nhà trên trống Đông Sơn, cuốn sách như một hành trình, đưa người đọc về với kiến trúc cổ truyền của nhiều tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á.

"Bằng phương pháp so sánh, và phân tích biểu tượng, chúng ta đã tìm ra được những hằng số của kiến trúc cổ Đông Nam Á, là các biểu tượng Âm Dương mang tính vũ trụ. Tìm hiểu sự hình thành của các biểu tượng đó, chúng ta đã đi xa hơn, đến với cuộc sống và tư duy nguyên thủy của cả nhân loại, đến với những công trình kiến trúc biểu tượng ở châu Phi và trên toàn trái đất.

Gắn với các biểu tượng và huyện thoại, lại là ngôn ngữ. Nghiên cứu lại xuất phát từ hai từ chỉ người “Pu” – “Ya”, so sánh và tìm ra những hằng số của ngôn ngữ Việt Nam – Đông Nam Á – Đông Á – Nam Á nằm trong họ từ Người." - GS Phan Hữu Dật.

Nhận xét về công trình này, GS Hoàng Văn Hành cho rằng: “Các nhà ngôn ngữ học lịch sử có thể chưa đồng ý với Tạ Đức ở điểm này, điểm khác trong chi tiết, nhưng không thể phủ nhận được tính vấn đề cao của các đơn vị ngôn ngữ phái sinh (về âm và nghĩa) khởi nguyên từ Pu và Ya trong các ngôn ngữ ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, Đông Á và Nam Á.”

người quay tơ

người quay tơ

Người Quay Tơ

TÁC PHẨM HẨM HIU MỞ ĐƯỜNG CHO MỘT HÀNH TRÌNH KIỆT XUẤT

“Người quay tơ” là một tác phẩm chẳng được nhiều người biết đến trong sự nghiệp văn học lẫy lừng của Nhất Linh – chủ soái Tự lực văn đoàn. Được in lần đầu vào năm 1927 tại Nghiêm Hàn ấn quán, và từ đó đến nay, tác phẩm mới chỉ được in thêm một lần duy nhất vào năm 1954 tại Sài Gòn với số lượng không nhiều. Nói đến đây thôi, chắc chúng ta cũng đủ hiểu sự “hẩm hiu” của “Người quay tơ” so với những tác phẩm truyện khác vốn được nhiều người đón nhận và nhắc đến suốt những thập kỷ sau này của Nhất Linh như Đoạn tuyệt, Đôi bạn hay Lạnh lùng…

Nhưng “Người quay tơ” có lẽ lại là một trong những tác phẩm được Nhất Linh gửi gắm nhiều tâm tư, tình cảm vào nhất. Là tuyển tập của mười hai truyện ngắn, bao gồm cả truyện dịch cổ và truyện dịch từ tiếng nước ngoài, cuốn sách ấp ủ mười hai câu chuyện cuộc đời với muôn hình vạn trạng khác nhau. Đó là câu chuyện của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng lạc lõng trong loạn lạc của xã hội đổi thay để rồi phải chịu nỗi đau khôn cùng mất cả chồng cả con mà hóa điên hóa dại (trong Người quay tơ). Đó cũng là câu chuyện của người tu hành nhưng chưa hết được lòng tham trần tục, vẫn bị tiền tài hấp dẫn để sa đà vào con đường quyền lực, danh vọng (trong Sư bác chùa Kênh)… Mỗi câu chuyện là một vấn đề nhức nhối cần thay đổi, cần cải cách của xã hội được Nhất Linh thẳng thắn lên tiếng, trình bày thông qua ngòi bút sắc bén của mình.

Ra đời sau “Nho phong” - tác phẩm đầu tay có vẻ còn non nớt của tác giả chỉ vỏn vẹn có đúng một năm (1926 – 1927), nhưng “Người quay tơ” lại là cả một sự thay đổi vượt bậc của Nhất Linh trong văn phong, ngôn từ hay những ẩn dụ nghệ thuật. Câu văn không còn lê thê, ước lệ do chịu ảnh hưởng của văn học trung đại Việt Nam những ngày xưa cũ, mà ngắn gọn, súc tích, trực tiếp và thẳng thắn. Ngôn từ được sử dụng cũng tự nhiên, giản dị và đời thường hơn muôn phần. Đó là một bước tiến lớn của văn học Việt Nam ngay trong thời kỳ tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ còn đang trong giai đoạn phôi thai.

tìm hiểu xã hội việt nam thời lý - trần

tìm hiểu xã hội việt nam thời lý - trần

Tìm Hiểu Xã Hội Việt Nam Thời Lý - Trần

Cuốn sách “Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần” do MaiHaBooks liên kết cùng Nhà xuất bản Khoa học xã hội tái bản năm 2022, là một công trình chuyên khảo đặc sắc với 17 chuyên luận của tập thể các nhà nghiên cứu thuộc Viện Sử học cùng một số nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa thuộc nhiều cơ quan nghiên cứu khác nhau.

Với cấu trúc ba phần: Phần thứ nhất nghiên cứu về hình thái kinh tế; Phần thứ hai nghiên cứu về thể chế chính trị và kết cấu đẳng cấp; Phần thứ ba nghiên cứu về văn hóa – tư tưởng, cuốn sách đã thâu tóm toàn diện các khía cạnh nghiên cứu về xã hội Đại Việt thời Lý – Trần

Đây là một công trình nghiên cứu tiêu biểu về lịch sử Việt Nam cổ trung đại, thể hiện mối quan tâm sâu sắc của giới sử học Việt Nam trong thập niên 70, 80 của thế kỷ XX trên bình diện gắn các vấn đề lịch sử dân tộc với tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước nhằm phục vụ phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

MaiHaBooks trân trọng giới thiệu đến bạn đọc gần xa một công trình nghiên cứu giá trị nhằm góp phần “lấp những lỗ hổng logic trong nhận thức lịch sử về thời kỳ Lý – Trần”.

huyền thoại về một vùng đất: không gian văn hóa tây nguyên qua sử thi êđê

huyền thoại về một vùng đất: không gian văn hóa tây nguyên qua sử thi êđê

Lịch sử đã lùi xa nhưng các di sản của văn hóa Tây Nguyên vẫn còn đó. Không gian văn hóa Tây Nguyên vẫn vang ngân tiếng đàn đá, các dàn cồng chiêng vẫn hòa nhịp với âm hưởng của núi rừng, rượu cần trong các ché cổ vẫn thấm, vẫn ngấm say lòng người. Chiều sâu văn hóa của đất và người Tây Nguyên đã và đang là động lực phát triển, là nguồn động năng lớn cuốn hút những tấm lòng, trí tuệ gần xa đến với “Miền đất huyền ảo” Cao Nguyên.

Với cách tiếp cận liên ngành và khu vực học, cuốn sách “Huyền thoại về một vùng đất – Không gian văn hóa Tây Nguyên qua sử thi Ê-đê” của GS.TS.NGƯT. Nguyễn Văn Kim tham góp một góc nhìn mới về văn hóa và con người Tây Nguyên. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã đã dành nhiều trang viết đậm chất suy tư về sự huyền ảo, chất bi tráng, anh hùng, kỳ vĩ của Tây Nguyên được thể hiện và phản ánh trong sử thi Dăm Săn và các bộ sử thi của đồng bào Ê-đê.

Qua đó, một Tây Nguyên giàu tiềm năng văn hóa, kinh tế đang trỗi dậy và chắc chắn (dù còn nhiều khó khăn, thách thức) sẽ tiếp tục có những đóng góp xứng đáng với văn hóa Việt Nam, văn hóa châu Á và thế giới.

MaiHaBooks hân hạnh ra mắt quý độc giả công trình nghiên cứu mới “Huyền thoại về một vùng đất – Không gian văn hóa Tây Nguyên qua sử thi Ê-đê” của GS. TS. NGƯT. Nguyễn Văn Kim.

lê quý kỷ sự

lê quý kỷ sự

Lê Quý kỷ sự (Ghi chép lại những câu chuyện cuối thời nhà Lê) là một tác phẩm sử học chép tay của Nguyễn Bảo, tức Nguyễn Thu, một sử thần thời Nguyễn, từng làm đến chức Biên tu Quốc sử quán triều Nguyễn soạn thảo.

Cuốn sách ghi lại một cách đầy đủ và cẩn trọng các sự kiện lịch sử trong suốt 12 năm đầy biến động của lịch sử nước nhà từ năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777) đến năm Chiêu thống thứ 3 (1789). Nhờ vậy, Lê Quý kỷ sự góp thêm một tiếng nói cụ thể và chi tiết hơn để phản ánh cục diện rối bời của triều đình Lê – Trịnh, khẳng định thêm những ảnh hưởng to lớn của phong trào Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo, góp phần đưa nước ta thoát khỏi nguy cơ bị phong kiến Trung Quốc đô hộ một lần nữa.

Bên cạnh đó, tác giả cũng linh động trong việc sử dụng lối hành văn của thể ký, kết hợp với việc trình bày các sự kiện theo lối “cương mục” (nêu tóm tắt ý chính của sự kiến trước rồi mới diễn giải chi tiết sau) giúp cho các sự kiện và nhân vật lịch sử được mô tả lại trở nên sinh động, gần gũi, chứ không khô khan như lối hành văn chép chính sử đương thời.

Dù còn có nhiều những ngăn trở do điều kiện giai cấp và sự hạn chế của tư tưởng trung quân đương thời nhưng những giá trị mà Lê Quý kỷ sự mang lại vẫn là những tư liệu đáng quý, góp phần làm rõ hơn về nhiều mặt chính trị, xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII.

Sau gần 50 năm của bản dịch đầu tiên do Hoa Bằng thực hiện và được Viện Sử học xuất bản, MaiHaBooks trân trọng giới thiệu đến độc giả ấn phẩm Lê Quý kỷ sự tái bản lần thứ nhất với nhiều bổ sung cho hoàn thiện hơn. Trong đó, quan trọng nhất là việc bổ sung đầy đủ 96 trang chữ Hán nguyên gốc theo bản chép tay của tác giả Nguyễn Thu.

Hy vọng rằng những nỗ lực này sẽ góp thêm một chút tư liệu quý giá cho các nhà sử học, các nhà nghiên cứu và bạn đọc gần xa trên hành trình tìm hiểu và gìn giữ những giá trị lịch sử, văn hóa dân tộc.

bộ nông thôn việt nam trong lịch sử - tập 2

bộ nông thôn việt nam trong lịch sử - tập 2

Vào những năm cuối thập niên 70 của thế kỷ trước, khi Viện sử học biên soạn bộ sách “Nông thôn Việt Nam trong lịch sử”, cũng là lúc nông thôn Việt Nam đang chuyển lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đây là một cuộc chuyển biến vĩ đại và rất sâu sắc, làm biến đổi cơ cấu nông thôn cổ truyền Việt Nam – sản xuất nhỏ tự cấp tự túc, tản mạn – lên một cơ cấu kinh tế mới công nông nghiệp xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh.

Việc tìm hiểu lịch sử nông thôn Việt Nam, những đặc điểm của nó, là để có một nhận thức và đánh giá toàn diện người nông dân Việt Nam, những chỗ mạnh, chỗ yếu của họ trên con đường tiến lên sản xuất lớn hiện nay, nói chung là trên con đường xây dựng chế độ mới, kinh tế mới, văn hóa mới và con người mới như đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Tiếp nối cuốn sách tập I, MaiHaBooks tiếp tục giới thiệu tới bạn đọc cuốn Nông thôn Việt Nam trong lịch sử tập II cũng là tập cuối cùng của bộ sách này. Khác với tập I, tập trung chủ yếu vào kinh tế làng xã – chế độ sở hữu ruộng đất – công thương nghiệp và vai trò của làng xã trong sự nghiệp đấu tranh giữ nước và giải phóng đất nước – thì tập II này sẽ tập trung chủ yếu vào vấn đề thiết chế chính trị và hệ tư tưởng làng xã.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả trọn vẹn bộ sách!

văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người việt

văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người việt

Linh mục Léopold Michel Cadière là một nhà nghiên cứu về Việt Nam với hơn sáu mươi năm miệt mài đóng góp vào sự phát triển những kiến thức về ngôn ngữ, lịch sử, khảo cổ, địa lý và cả thực vật học.

Trong khối tài sản nghiên cứu lên đến 250 công trình ấy, bộ sách gồm 3 tập với tên gọi Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt là một công trình đồ sộ, được giới nghiên cứu đánh giá là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của L. Cadière.

Trong tác phẩm này, Léopold Cadière đã nghiên cứu văn hóa Việt Nam với các nội dung:

- Tập 1: Tôn giáo người Việt; đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật ở Việt Nam; Gia đình và tôn giáo người Việt; Tế Nam giao; Lăng mộ người Việt vùng phụ cận Huế; Lăng Gia Long; Tang lễ vua Gia Long; Về một vài sự kiện tôn giáo hoặc ma thuật ghi nhận được một mùa dịch tả ở Việt Nam.

- Tập 2: Tín ngưỡng và thực hành tôn giáo của người Việt vùng phụ cận Huế; Phép dưỡng nhi ma thuật ở Việt Nam; Tín ngưỡng và ngạn ngữ dân gian vùn thung lũng Nguồn Son, tỉnh Quảng Bình (Trung Việt); Phong tục dân gian tại thung lũng Nguồn Son; Thần Kinh.

- Tập 3: Triết lý dân gian người Việt: Vũ trụ quan; Triết lý dân gian người Việt: Nhân sinh quan; Nghệ thuật Huế; Người Việt: Dân tộc – Ngôn ngữ; Một vài quy luật tu duy nơi người Việt, xét từ ngôn ngữ của họ; Một vài chỉ dẫn thiết thực dành cho các vị thừa sai khi giảng đạo.

Có thể thấy trong cuốn sách của mình, L. Cadière đã tìm hiểu văn hóa tập trung chủ yếu ở khu vực miền Trung Việt Nam, cụ thể là ở Huế. Có điểm đặc biệt này là do vào năm 1892, khi lần đầu tiên đến Việt Nam, L. Cadière đã được chỉ định sứ mạng đến Huế làm nhiệm vụ truyền giáo và rồi ông không rời Việt Nam, chỉ trừ đôi lần hiếm hoi trở về châu Âu để tìm đọc và nghiên cứu trong các kho lưu trữ tại La Mã hay tại Paris. Tình cảm nồng hậu với đất nước, con người Việt Nam còn được ông trăn trối lúc cuối đời: “Cả đời tôi, tôi đã dâng cho xứ sở này rồi. Cho tôi được ở lại và chết ở nơi đây”.

Trong bộ sách Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, L. Cadière không chỉ thông qua tài liệu, sách vở đã viết sẵn mà ông còn tự mình mắt thấy tai nghe (de visu), thẩm nhập và sống với đối tượng, lĩnh vực mình tìm hiểu (sur du vivant). Phương pháp tìm kiếm tư liệu trong cuốn sách được thể hiện rõ nhất trong lời phân minh của tác giả:

“Các tư liệu trên đây được đơn cử chính xác tối đa, cả về mặt miêu tả nơi chốn khi tiếp cận được, cả về mặt liên quan đến nhân chứng. Về điểm này thì tôi trung thực chuyển dịch lại những chuyện kể, những giải thích do họ cung cấp mà không thêm một chút gì. Nhiều nhất là trong khi điều tra tìm hiểu, tôi thường chú trọng đến việc thu thập những câu trả lời để tư liệu được đầy đủ hơn; để đạt được, tôi thường đặt ra một số câu hỏi mà họ không ngờ tới. Nhưng mà những điều tra này, trải qua nhiều năm tháng, được thực hiện hoàn toàn không có một ý định dự tính nào ngay từ đầu, cũng không đặt ra mục tiêu kết luận sẽ ra sao”.

Nếu bạn đọc cảm thấy đã nhàm chán với những lý thuyết, thuật ngữ nghiên cứu khô cứng, khó hiểu; mong muốn tìm hiểu về văn hóa Việt Nam thông qua những câu chuyện góp nhặt tại từng địa phương, được trình bày một cách có hệ thống thì Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt là một bộ sách đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu đó.

lược khảo binh chế việt nam qua các thời đại

lược khảo binh chế việt nam qua các thời đại

Lược Khảo Binh Chế Việt Nam Qua Các Thời Đại

Cuốn Lược khảo binh chế Việt Nam qua các thời đại được cụ Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng biên soạn từ trước năm 1945 từ việc khảo cứu các tư liệu cổ và từ lời kể của những võ quan triều Nguyễn. Trong cuốn sách là những tư liệu quý nghiên cứu về chế độ quân sự, vũ khí, sơ đồ chiến thuật (trận đồ, trận pháp), chế độ thi tuyển võ quan trong lịch sử quân sự Việt Nam. Bên cạnh đó, Tiên Đàm còn khảo cứu một số trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Đây là tài liệu thực sự có giá trị khi nghiên cứu nhiều mặt: lịch sử, văn hóa, pháp luật, giáo dục, thể dục thể

Cuốn Lược khảo binh chế Việt Nam qua các thời đại là cuốn sách có số phận đặc biệt. Sách vốn được Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng cho ấn hành lần đầu vào năm 1946. Nhưng chưa kịp phát hành thì Toàn quốc kháng chiến diễn ra, sách bị thiêu hủy trong cơn binh lửa. Tiên Đàm tản cư về Thái Bình cũng không còn bản thảo. Năm 1950, khi hồi cư về Hà Nội, Tiên Đàm may mắn tìm lại được một bản thảo do ông chủ hiệu sách Thăng Long lưu giữ. Sách được in lại nhà xuất bản Ngày Mai và lần đầu tiên đến tay bạn đọc (nhưng là lần in thứ hai).

Sau một thời gian dài, nhờ sự cố gắng sưu tầm tư liệu và biên tập, chúng tôi cho in lại lần thứ ba cuốn Lược khảo binh chế Việt Nam qua các thời đại. 70 năm sau, một số địa danh trong bản in năm 1950 đã thay đổi. Nhiều kết quả nghiên cứu mới về lịch sử binh chế Việt Nam được công bố. Tuy nhiên, để tôn trọng tính lịch sử của văn bản, chúng tôi vẫn giữ nguyên những kết quả nghiên cứu và đánh giá của ông. Chúng tôi chỉ biên tập lại những lỗi chính tả và chú thích những địa danh mới cho phù hợp với hiện tại.

hương ước làng công giáo vùng đồng bằng sông hồng - lịch sử và hiện tại

hương ước làng công giáo vùng đồng bằng sông hồng - lịch sử và hiện tại

Hương Ước Làng Công Giáo Vùng Đồng Bằng Sông Hồng - Lịch Sử Và Hiện Tại

Cũng như các tôn giáo khác, Công giáo từ khi du nhập vào Việt Nam (thế kỷ XVII) đến nay luôn đồng hành cùng dân tộc và có ảnh hưởng đến đời sống xã hội của người dân trong quá trình truyền giáo. Công giáo với nền văn hóa ngoại lai, từng bước hội nhập vào trong nền văn hóa dân tộc tạo nên sự phong phú và đa dạng cho văn hóa Việt Nam. Sự hội nhập văn hóa đó thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau như văn học, nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc, ngôn ngữ, lễ hội,...

Với cách tiếp cận mới - Tôn giáo học kết hợp với Sử học, Văn bản học, tác giả đã trình bày về lịch sử hình thành, quá trình phát triển, đặc điểm cũng như những nội dung cơ bản của hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng trong lịch sử và hiện tại qua 4 chương sách cụ thể như sau:

Chương 1: Giới thiệu chung về vấn đề nghiên cứu.

Chương 2: Lịch sử hìnhthành, quá trình phát triển của hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng.

Chương 3: Những nội dung cơ bản của hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng.

Chương 4: Hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng trong đời sống văn hóa - xã hội hiện nay.

Cuốn sách này như là một trong những đóng góp nhỏ vào khối Di sản văn hóa Công giáo ở Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm khối tư liệu về làng xã Việt Nam và cũng là nguồn giá trị có ý nghĩa, có sức sống dẻo dai trong nền văn hóa của Việt Nam.

ô châu cận lục

ô châu cận lục

Ô Châu Cận Lục

Ô châu cận lục là một trong những cuốn địa chí sớm nhất của nước ta viết về vùng đất từ Quảng Bình đến Bắc Quảng Nam ở thế kỷ XVI. Trong Bài tựa sách Ô châu cận lục, Dương Văn An cho biết hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: “Đến năm Quý Sửu (1553) về nhà cư tang, nhân đọc khắp tác phẩm, đương thời có hai nho sĩ cùng quê đã chia nhau chép hai tập sách về hai phủ Tân Bình, Triệu Phong... khảo thêm tín  sử, tham bác lời khẩu truyền, chỗ rườm rã thì bỏ bớt, chỗ sơ lược thì bổ sung, gọi tên là Ô châu cận lục, cũng là chỉ muốn để tham khảo cho mình vậy...”. Nói là để tham khảo cho mình nhưng đúng như Dương văn An viết: “Người giở sách đọc xem có thể gợi lên nhiều nếp nghĩ, tiếp xúc nhiều loại mà trưởng thành hơn. Thấy vẻ đẹp của núi sông mới biết rằng địa linh nhân kiệt, xem sản vật tốt tươi, mới rõ vật tốt hay người hay...”

Chính vì thế, Ô châu cận lục được Lê Quý Đôn tham khảo biên soạn sách Phủ Biên tạp lục năm 1776. Sau đó, tư liệu được sử dụng nhiều trong  Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam dư địa chí ước biên và các sách  lịch sử, địa lý khác của Quốc sử quán triều Nguyễn. Ngày nay, Ô châu cận lục được dùng nhiều trong các công trình khảo cứu, biên soạn địa lý, lịch sử, văn hóa ở những địa phương mà sách đã đề cập đến.

liệu tôi có bao giờ đủ tốt - phương thức chữa lành cho những cô con gái của người mẹ ái kỷ

liệu tôi có bao giờ đủ tốt - phương thức chữa lành cho những cô con gái của người mẹ ái kỷ

Liệu Tôi Có Bao Giờ Đủ Tốt - Phương Thức Chữa Lành Cho Những Cô Con Gái Của Người Mẹ Ái Kỷ

Đề tài tâm lý gia đình nóng lên chăng? Tôi liên tục nhận đầu sách về mảng này. Lần này là vấn để “chữa lành cho những cô con gái của người mẹ ái kỷ”.

“TS. McBride thực hiện một nhiệm vụ tuyệt vời là mô tả đa diện về thói ái kỷ. Tôi thấy cuốn sách cực kỳ cuốn hút, dễ đọc, nhưng cũng rất giàu thông tin, thực tế, và có hệ thống trong phương hướng để tiếp cận và điều trị. Đây là một cuốn sách phải đọc cho bất kỳ ai đang sống với người yêu thương mắc chứng ái kỷ.”

-Renee Richker Bác sĩ Y khoa, chuyên gia điều trị tâm lý cho trẻ em và trẻ vị thành niên.

“TS. McBride đã thực hiện một công việc tuyệt vời là thấu hiểu được nỗi đau khổ của những người phụ nữ lớn lên bên cạnh người mẹ ái kỷ. Cuốn sách hướng dẫn phụ nữ thoát khỏi cái bẫy đi tìm kiếm sự chấp nhận để chứng tỏ giá trị bản thân một cách dễ dàng và hữu hiệu hơn bao giờ hết. Với văn phòng mạch lạc, tác giả giúp người đọc xác định rõ những biểu hiện tinh vi của chứng ái kỷ. Và, thông qua các ví dụ, chứng minh những đặc điểm này ở một người mẹ có thể định hình tính cách, cách nhìn của một cô con gái về bản thân, thế giới và các mối quan hệ xung quanh mình như thế nào. TS. McBride thực sự cần được ngợi khen vì những đóng góp độc đáo của bà cho hiểu biết của chúng ta về những động năng rối rắm trong mối quan hệ tình cảm thân thiết nhất của mỗi cá nhân,mối quan hệ gia đình.”

-TS. Monica Ramirez Basco

chữ, văn quốc ngữ - thời kì bắc thuộc (tái bản theo bản in năm 1974)

chữ, văn quốc ngữ - thời kì bắc thuộc (tái bản theo bản in năm 1974)

Chữ, Văn Quốc Ngữ - Thời Kì Bắc Thuộc (Tái Bản Theo Bản In Năm 1974)

Chúng ta đều thống nhất rằng chữ Quốc Ngữ là thứ chữ mà các giáo sĩ phương Tây cùng rất nhiều người Việt dùng chữ Latinh để ghi âm cách phát âm của người Việt. Ban đầu, chữ Quốc Ngữ chỉ nằm trong mục đích truyền giáo, nhưng sau này, chữ Quốc Ngữ được người Việt chấp nhận.

Từ đó, đóng góp và ảnh hưởng của chữ Quốc Ngữ với xã hội đã là thứ đồng hành không thể tách rời với lịch sử. Với điều đó, hiểu được tầm quan trọng, nhiều nhà nghiên cứu đã nghiên cứu, đề cập về lịch sử hình thành và truyền bá.

Năm 1974, Nhà xuất bản Nam Sơn phát hành cuốn sách Chữ, văn Quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc tại Sài Gòn với nguồn là công trình khảo cứu của Giáo sư Nguyễn Văn Trung – một người nổi danh trong những sinh hoạt văn chương, báo chí, triết học mang tính học thuật tại miền Nam trước năm 1975. Mục đích của công trình này là xem lại quan điểm cho rằng những nhà văn, nhà báo thời kỳ đầy phủ nhận quan điểm nhờ chữ Quốc ngữ mà ta được văn minh và cho rằng đã “quan trọng hóa” vài trò chữ Quốc Ngữ.

Chúng tôi đã tái bản cuốn sách này như để độc giả đương thời hiểu thêm, cũng như có một tài liệu nghiên cứu về lịch sử chữ viết, lịch sử văn học và lịch sử đất nước nói chung ở một giai đoạn tối tăm, nô lệ.

Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

Liên Hệ