chính trực

chính trực

Chính Trực

Chính trực là sự chiêm nghiệm của những linh hồn can đảm, dám thách thức những quan điểm cũ kỹ để tìm về lối sống chân thực, phù hợp với căn tính của bản thân cũng như sự phát triển tự nhiên của xã hội.

Cuốn sách đi thẳng vào những vấn đề cơ bản nhất của loài người. Tại sao chúng ta không thể sống hạnh phúc và mãn nguyện? Tưởng như nhân loại đã sở hữu tất cả kiến thức cần thiết để giải quyết mọi khổ đau trên đời, nhưng sự thật là các vấn đề không bao giờ thực sự được giải quyết, và chúng thường có xu hướng trở nên tồi tệ hơn. Lý do cơ bản dẫn đến thất bại của chúng ta là gì?

Tiết lộ của Osho về gốc rễ các nỗi đau của loài người sẽ khiến chúng ta cảm thấy không thoải mái, bởi ông buộc chúng ta đối mặt trực tiếp với những điều ta vẫn luôn lẩn tránh, cũng như khiến ta ngộ ra những nhầm tưởng đã tồn tại hàng thế kỷ trong ký ức đám đông.

Nếu từ bỏ sự phản kháng trong lòng và bước vào hành trình của cuốn sách này với một trái tim rộng mở, độc giả có thể tự nghiệm ra những chân lý thật sự do chính bản thân ta tự đúc rút, chứ không phụ thuộc vào những kiến thức vay mượn từ bất cứ ai khác - dù họ là những cá nhân và tổ chức đầy uy quyền đã áp đặt những thiên kiến sai lệch vào tâm trí ta ngay từ khoảnh khắc ta mới ra đời.

Cuốn sách “Chính trực” là một trải nghiệm để xóa bỏ các ràng buộc vẫn luôn níu chân chúng ta trong cuộc sống. Và chỉ khi ta loại bỏ những ý tưởng và quan điểm do người khác nhồi nhét vào tâm trí mình, dám thừa nhận bản thân là một cá nhân không hoàn hảo và dũng cảm bước vào miền đất còn nhiều điều bí ẩn, thì ta mới có thể thực sự tận hưởng cuộc sống trong từng khoảnh khắc, từ đó sống một cuộc đời thành thật, hòa hợp với căn tính của ta.

Về tác giả

Osho (1931-1990) là một đạo sư người Ấn được hàng triệu người trên thế giới tìm đọc. Hàng trăm cuốn sách cùng vô số bài thuyết giảng của ông về đề tài tâm linh đã để lại những dấu ấn khó phai trong lòng công chúng. Giáo lý của Osho đậm chất phương Đông, nhấn mạnh tới tầm quan trọng của thiền và sự tỉnh thức, từ đó hướng người tu tập buông bỏ cái tôi, nuôi dưỡng tình thương yêu và đánh thức nguồn năng lượng nguyên thủy từ trong căn cốt.

cuộc hành hương nội tại

cuộc hành hương nội tại

Cuốn sách “Cuộc hành hương nội tại” viết về cuộc hành trình buông bỏ cái tôi và đánh thức nguồn năng lượng đang ngủ say trong bản thể, dựa trên những chiêm nghiệm của Osho về thiền định.

Ngay từ khi mới sinh ra, con người đã dấn bước vào một hành trình tìm kiếm. Con người không ngừng đặt câu hỏi. Chân lý là gì? Cuộc sống là gì? Vì sao mà ta lại ở đây? Định mệnh đã an bài cho ta số mệnh thế nào? Con người tầm thường và nhỏ bé, nhưng sự truy vấn nhận thức mang tính bản năng lại biến chúng ta thành những cá thể phi thường - những linh hồn dám bước vào một cuộc hành hương vô tận, không điểm bắt đầu, không nơi kết thúc.

Hành trình tìm kiếm cũng là một hành trình buông bỏ. Buông bỏ cái tôi, sự tham lam, thói ích kỷ, cơn thịnh nộ, những ham muốn cuồng si, những ảo mộng hão huyền. Ta trở về với hư không, tĩnh lặng, chân thực và thuần khiết. Ở nơi sâu thẳm nhất, ta đánh thức nguồn năng lượng đang ngủ say trong bản thể mình. Ta chạm tới điểm tối thượng, thấu triệt những lẽ thiêng liêng và tắm mình trong phước lành.

Khi ấy, mắt sáng lòng trong, ta đã sẵn sàng về cội.

Con người luôn bị thôi thúc phải bước sâu vào nội tâm mình để khám phá nguồn sức mạnh bên trong, từ đó đánh thức tiềm năng thực sự của bản thân. Cuộc tìm kiếm này cũng là cuộc hành hương đi tìm nguồn gốc và ý nghĩa của cuộc đời, của sự tồn tại.

Chúng ta đang ở đây, chúng ta đang sống trong đời - nhưng chúng ta lại không biết cuộc đời thực sự là gì. Chúng ta có thể cảm nhận được năng lượng của mình, nhưng lại không biết nguồn năng lượng ấy đến từ đâu và sẽ hướng đến mục tiêu nào. Với những cảm nhận mơ hồ về sức mạnh nội tâm, chúng ta không ngừng đặt ra các câu hỏi và tiếp tục hành trình tìm kiếm. Thiền tông đã hình tượng hóa chuyến đi này bằng mười bức tranh tìm trâu (Thập mục ngưu đồ), với mỗi bức tranh đại diện cho một bước cụ thể trên hành trình chiêm nghiệm. Khi đã thấu triệt Thập mục ngưu đồ, người hành hương cũng sẽ trở thành một cá nhân tỉnh thức, giác ngộ.

“Cuộc hành hương nội tại” của Osho dẫn dắt chúng ta qua câu chuyện tìm trâu, xen kẽ những bài học nhỏ và sâu sắc về thế tục cũng như miền tâm linh tĩnh lặng. Chúng ta xuất phát từ nhân thế, đi tới hư không, và sau cùng lại trở về nơi hồng trần khói lửa để kết thúc vòng tròn hoàn hảo. Ta sẽ dừng lại ở nơi mình đã bắt đầu, vẫn là chính ta, nhưng căn cốt ta đã biến đổi, tươi mới, trọn vẹn và tuôn tràn năng lượng sống.

Về tác giả

Osho (1931-1990) là một đạo sư người Ấn được hàng triệu người trên thế giới tìm đọc. Hàng trăm cuốn sách cùng vô số bài thuyết giảng của ông về đề tài tâm linh đã để lại những dấu ấn khó phai trong lòng công chúng. Giáo lý của Osho đậm chất phương Đông, nhấn mạnh tới tầm quan trọng của thiền và sự tỉnh thức, từ đó hướng người tu tập buông bỏ cái tôi, nuôi dưỡng tình thương yêu và đánh thức nguồn năng lượng nguyên thủy từ trong căn cốt.

osho - giác ngộ - đừng để chân lý của ai đó trở thành triết lý của bạn

osho - giác ngộ - đừng để chân lý của ai đó trở thành triết lý của bạn

Osho - Giác Ngộ - Đừng Để Chân Lý Của Ai Đó Trở Thành Triết Lý Của Bạn

Trong các cuốn sách của Osho đều được tạo ra từ những cuộc nói chuyện rộng rãi của ông. Khi chia sẻ những câu chuyện từ cuộc sống của chính mình, mang đến những hiểu biết mới về những câu chuyện ngụ ngôn cũ và thách thức người nghe kiểm tra niềm tin có ý thức và vô thức của chính họ, Osho bắt đầu tạo ra một "câu chuyện" mới và chân thực hơn về những gì con người chúng ta đang làm trên hành tinh này, và tại sao chúng ta ở đây.

“Giác ngộ” như bản tuyên ngôn về món quà vô giá của cá nhân, về cả tự do và trách nhiệm đi kèm với cuộc sống sống theo ánh sáng của riêng bạn, không có những khái niệm và tư tưởng cố định do người khác đưa ra - cho dù đó là cha mẹ, giáo viên, linh mục, hoặc chính trị gia. Thách thức là không có gì là đương nhiên và can đảm để bước vào cái không biết mà không có ý tưởng về những gì sẽ xảy ra, với sự sáng tạo, nhạy cảm và nhận thức tuyệt vời, nhưng không có hệ tư tưởng cố định.

Osho nói: "Bạn phải trải qua một sự biến đổi và điều đó chỉ bạn mới có thể làm được. Ngoại trừ bạn, không ai có thể đến được đó. Và đây là vẻ đẹp của tâm hồn con người, điều đó hoàn toàn không có ở bất kỳ ai. Trung tâm của bạn được bảo vệ rất nhiều bởi sự tồn tại mà thậm chí không ai có thể chạm vào nó." Nếu thông điệp chạm đến bạn bằng cách nào đó, dù chỉ một ít, cũng đủ rồi – bởi vì chỉ một đốm lửa nhỏ cũng đủ để thiêu cháy khu rừng. Cả cuộc đời bạn có thể bùng cháy chỉ vì một đốm lửa nhỏ chạm vào bạn.

Không có ngôn ngữ nào tồn tại trên thế giới được tạo ra bởi những người giác ngộ, dành cho người giác ngộ và cho mục đích giác ngộ. Đó chính là trở ngại; đó là lý do tại sao họ đều cảm thấy rằng sự thật không thể được diễn đạt. Không có ngôn ngữ nào được tạo ra bởi những người nắm bắt chân lý. Trên thực tế, chưa từng có nhiều người hiểu biết đến mức cần phải tạo ra một loại ngôn ngữ. Việc ai đó giác ngộ là điều hiếm gặp, chỉ thi thoảng mới xảy ra.

Trong thời điểm mà những ý tưởng cấp tiến về hầu hết mọi vấn đề và chủ đề dường như trở thành mốt bởi vì tâm trí con người có xu hướng điên cuồng xoay chuyển như một con lắc từ thái cực này sang thái cực khác, thật sảng khoái khi nghe hoặc đọc được tiếng nói của lý trí. Trong cuốn sách này, Osho đã phân tích chi tiết cách tâm trí của chúng ta bị điều kiện bởi xu hướng cực đoan, tại sao chúng ta lại mong mỏi các nhà lãnh đạo giải cứu chúng ta hoặc đưa chúng ta trở lại những ngày xưa tươi đẹp.

Thông tin tác giả:

Osho (1931-1990) Là một đạo sư người Ấn được hàng triệu người trên thế giới tìm đọc. Giáo lý của Osho đậm chất phương Đông, nhấn mạnh tới tầm quan trọng của thiền và sự tỉnh thức, từ đó hướng người tu tập buông bỏ cái tôi, nuôi dưỡng tình thương yêu và đánh thức nguồn năng lượng nguyên thủy từ trong căn cốt.

osho - upanishad - cốt tủy của giáo huấn (tái bản 2022)

osho - upanishad - cốt tủy của giáo huấn (tái bản 2022)

Osho Upanishad - Cốt Tủy Của Giáo Huấn (Tái Bản 2022)

Từ Upanishad nghĩa là giáo huấn bí truyền, giáo huấn ẩn giấu, giáo huấn bí mật. Upanishad nghĩa là con đường bí mật, chìa khóa bí mật – điều bí truyền, điều ẩn giấu, điều không biết. Upanishad nghĩa là điều huyền bí

Tôi đã lựa chọn nói về bộ kinh Upanishad bởi vì với tôi, nó đại diện cho một trong những sự diễn đạt điều tối thượng thuần khiết nhất có thể – nếu có thể diễn đạt được điều đó. Điều này thực sự khó, theo nghĩa là không thể truyền tải thông qua tâm trí điều vượt ra ngoài tâm trí. Ở một phương diện nào đó, hoàn toàn không thể nói gì về điều bạn cảm nhận được khi bạn đang ở trong sự im lặng sâu xa nhất. Khi lời nói không tồn tại bên trong bạn, khi ngôn từ ngừng hoàn toàn, khi trí năng không còn vận hành, khi tâm trí hoàn toàn không ở đó để ghi nhớ, lúc ấy điều đó xảy ra, lúc ấy bạn trải nghiệm. Và khi tâm trí quay lại, khi kí ức bắt đầu vận hành, khi trí năng chiếm hữu bạn một lần nữa, trải nghiệm đã qua đi rồi. Bây giờ trải nghiệm không còn ở đó; chỉ còn lại những tiếng vọng của nó, những rung động của nó. Chỉ có thể nắm bắt được những tiếng vọng, những rung động đó.

Đó là lí do tại sao những ai đã biết luôn không thể, rất khó, thốt ra điều gì đó. Những người không biết gì hết có thể nói nhiều. Nhưng với những ai biết, ngày càng khó nói điều gì đó bởi vì bất cứ điều gì họ nói đều có vẻ sai. Họ có thể so sánh trải nghiệm của mình với những cách diễn đạt nó bởi vì họ có một trải nghiệm sống. Giờ đây họ có thể cảm nhận ngôn ngữ đang làm gì với nó: Ngôn ngữ đang làm sai lệch nó.

Khi một trải nghiệm sống bước vào lời nói, nó trông như đã chết, nhợt nhạt. Một trải nghiệm sống có tính toàn bộ, trong đó toàn thể bản thể bạn nhảy múa và hân hoan, còn khi được diễn đạt thông qua trí năng, nó trông mờ đục, chẳng có ý nghĩa gì.

Những người không biết có thể nói nhiều bởi vì họ chẳng có gì để so sánh. Họ không có trải nghiệm nguyên gốc, họ không thể biết họ đang làm gì. Một khi ai đó biết, anh ta biết việc diễn đạt nó đúng là một vấn đề. Nhiều người đã hoàn toàn giữ im lặng và vì thế, nhiều người đã hoàn toàn không được ai biết đến – bởi chúng ta chỉ có thể biết về người nói ra. Khoảnh khắc ai đó nói ra, anh ta bước vào xã hội. Khi ai đó ngừng nói, anh ta rời khỏi xã hội, anh ta không còn là một phần của nó. Ngôn ngữ là môi trường trong đó xã hội tồn tại. Nó giống hệt như máu: Máu lưu thông trong bạn và bạn tồn tại. Ngôn ngữ lưu thông trong xã hội và xã hội tồn tại. Thiếu ngôn ngữ thì không có xã hội. Cho nên những ai vẫn còn im lặng thì rơi ra ngoài xã hội. Chúng ta đã lãng quên họ. Kì thực, chúng ta chưa bao giờ biết đến họ.

Ở đâu đó, Vivekananda đã nói – và nói rất đúng – rằng những Đức Phật, những Krishna2 và những Chúa Jesus mà chúng ta đã biết không thực sự là những điển hình. Họ không thực sự là trung tâm, họ ở ngoại vi. Lịch sử đã để thất lạc những diễn biến cốt yếu nhất. Những người đã trở nên im lặng tới mức không thể giao tiếp với chúng ta thì không được biết đến. Không thể biết đến họ, không có cách nào để biết đến họ. Theo một cách nào đó Vivekananda đúng, nhưng những người trở nên im lặng tới mức không thốt ra điều gì về trải nghiệm của họ đã không giúp đỡ chúng ta. Họ đã không thực sự đủ lòng trắc ẩn. Trên một phương diện nào đó, họ hoàn toàn ích kỉ. Đúng là thật khó nói điều gì về chân lí, nhưng ngay cả vậy thì vẫn phải thử. Phải thử bởi vì thậm chí một chân lí bị pha loãng cũng sẽ giúp ích cho những ai sống hoàn toàn trong ảo tưởng. Thậm chí một điều đem theo một tiếng vọng rất xa xăm cũng sẽ giúp họ thay đổi.

Không phải là Đức Phật rất hài lòng với những gì ông nói. Bất cứ điều gì ông nói, ông đều cảm thấy không đúng. Ông có cảm giác giống như Lão Tử. Lão Tử nói: “Điều có thể được nói ra không thể đúng. Khoảnh khắc nó được nói ra, nó đã bị sai lệch.” Nhưng dù vậy, đối với những ai sống trong các thế giới nhiều ảo tưởng, những ai đang ngủ sâu, đang ngủ say, thì thậm chí một sự hồi chuông báo thức giả cũng có thể giúp ích. Nếu họ có thể bước ra khỏi giấc ngủ của mình, nếu có thể mang họ đến một ý thức mới, một bản thể mới, thì thậm chí một báo thức giả cũng là tốt. Đương nhiên, khi bản thân họ thức tỉnh, họ sẽ biết rằng nó là giả – nhưng nó sẽ giúp ích.

Bộ kinh Upanishad này rất đơn giản, chúng nói theo cách từ trái tim đến trái tim. Chúng không mang tính triết lí, chúng mang tính tôn giáo. Chúng không liên quan đến những khái niệm, những học thuyết, những giáo lí; chúng liên quan đến một chân lí sống – nó là gì, và có thể sống theo nó như thế nào. Bạn không thể suy nghĩ về nó, bạn không thể triết luận về nó. Bạn chỉ có thể di chuyển vào trong nó và cho phép nó di chuyển vào trong bạn. Bạn chỉ có thể chứa đựng nó, bạn chỉ có thể đắm chìm toàn bộ vào trong nó. Bạn có thể tan chảy trong nó. Chúng ta sẽ nói về bộ kinh Upanishad, và tôi sẽ mang trải nghiệm của riêng mình vào để đáp lại chúng.

osho - yêu - being in love

osho - yêu - being in love

“YÊU” TRONG TỈNH THỨC VỚI OSHO

Một chỉ dẫn “yêu không sợ hãi” đầy ngạc nhiên từ bậc thầy tâm linh Osho

Những người đói khát trong nhu cầu, những người luôn kỳ vọng ở tình yêu chính là những người đau khổ nhất. Hai kẻ đói khát tìm thấy nhau trong một mối quan hệ yêu đương cùng những kỳ vọng người kia sẽ mang đến cho mình thứ mình cần – về cơ bản sẽ nhanh chóng thất vọng về nhau và cùng mang đến ngục tù khổ đau cho nhau. Trong cuốn sách Yêu, Osho - bậc thầy tâm linh, người được tôn vinh là một trong 1000 người kiến tạo của thế kỷ 20 – đã đưa ra những kiến giải sâu sắc về nhu cầu tâm lý có sức mạnh lớn nhất của nhân loại và “chỉ cho chúng ta cách trải nghiệm tình yêu”.

Trong “Yêu” (Tựa gốc: Being in Love), Osho dẫn người đọc vào một hành trình tìm hiểu táo bạo và đầy sôi nổi về “hiện tượng bí ẩn” mang tên tình yêu.  “Điều bạn cần làm không phải là học cách yêu, mà là loại bỏ những cách đánh mất tình yêu”, ông mở đầu. Trước tiên, Osho đưa ra một danh sách những điều “không phải là tình yêu”. Ông phân tích những nhu cầu đi kèm tình yêu thương đã phá hủy tình yêu ra sao, điều này diễn ra kể từ khi con người mới chào đời cho đến khi trưởng thành. Những thói quen đòi hỏi, mong muốn sở hữu người khác, kỳ vọng vào người khác… đều tạo nên sự hủy diệt và xung đột trong mọi mối quan hệ tình cảm, bao gồm cả tình yêu. Theo ông, tình yêu không bao gồm cảm giác ghen tuông, chiếm hữu, cạnh tranh, phụ thuộc, hay việc đòi hỏi người mình yêu phải hoàn hảo. Những điều trên đều khởi nguồn từ cái tôi, và Osho cho rằng: “Khi bạn thật sự yêu ai đó, cái tôi của bạn bắt đầu tan chảy và biến mất”.

Thông qua từng chương của cuốn sách, bạn đọc nhận diện những dấu hiệu của một tình yêu đích thực: Sự cho đi và không chờ đợi được nhận lại, sự trưởng thành cá nhân, đặc biệt là sự tỉnh thức khi yêu. “Việc tỉnh táo nhận biết về bản thể của mình là sự khởi đầu của hành trình hướng tới tình yêu”.

Trong phần trọng tâm của cuốn sách “Tình yêu là cơn gió mát lành” - Osho dành nhiều thời lượng bàn về những chỉ dẫn yêu đương, tinh tế, thấu cảm, hài hước và nhiệt tình chẳng kém gì một nhà tư vấn tâm lý hiện đại tài ba nhất. Ông hoá giải những trải nghiệm tệ hại mà ta gặp phải khi yêu: Sự hụt hẫng sau những phấn khích ban đầu hay thất vọng về tình dục. Hiếm có một bậc thầy tâm linh nào lại mang ánh sáng của thiền và đạo vào vấn đề tình dục, khoái cảm như Osho và ông đã kiến giải vấn đề này vô cùng uyên bác, thấu đáo và có tính giáo dục cao hơn bất cứ cuốn sách giáo dục giới tính nào trong vấn đề tình dục từng có. Osho cũng thẳng thừng gạt phăng những hiểu lầm, những “ý nghĩ vô nghĩa” về tình yêu như tư tưởng “yêu là đau khổ” hay phụ nữ không nên là người chủ động khi yêu.

Sau cùng, Osho đưa ra những “niềm tin mới”, cổ vũ bạn đọc dấn thân vào tình yêu đích thực, thứ tình yêu của những linh hồn trưởng thành để đem đến sự hạnh phúc, khai sáng và chữa lành cho tất cả. Osho cũng đưa ra nhiều lời khuyên đáng giá cho các cặp đôi đang yêu.

 Chúng ta thường sợ hãi khi nghĩ về tình yêu, ta e ngại những nỗi đau lẫn rắc rối mà nó đem đến. Với “Yêu”, bằng giọng văn cá tính và cuốn hút đặc trưng, Osho đem đến sự thấu hiểu trọn vẹn về tình yêu, đồng thời truyền niềm tin và sự dũng cảm để bạn đọc bước vào trải nghiệm phức tạp này một cách mới mẻ trong thứ ánh sáng tỉnh thức của tâm linh. “Tình yêu chỉ có thể trưởng thành trong tình yêu”, ông nói, “Có điều gì đó thật đẹp đang chờ bạn phía trước. Nếu bạn có thể chờ đợi, nếu bạn có đủ kiên nhẫn và có thể tin tưởng, nó sẽ đến”.

BOX:

Osho là bậc đạo sư gây tranh cãi bậc nhất, đồng thời cũng có ảnh hưởng nhất. Tờ Sunday Times của London mô tả Osho là một trong 1000 người kiến tạo của thế kỷ 20. Còn tờ Sunday Mid-day của Ấn Độ bình chọn Osho là một trong 10 người, cùng với Gandhi, Nehru và Đức Phật, thay đổi vận mệnh của Ấn Độ. Sách của ông đã được dịch ra hơn 60 ngôn ngữ trên thế giới.

Osho được biết đến với những đóng góp mang tính cách mạng trong lĩnh vực chuyển hoá nội tâm thông qua thiền định. Phương pháp thiền động của Osho (active meditation) giúp giải toả căng thẳng cho thân và tâm, giúp mọi người dễ dàng trải nghiệm sự an nhiên, tĩnh tại.

osho - can đảm là chính mình trong thế giới hiểm nguy

osho - can đảm là chính mình trong thế giới hiểm nguy

CAN ĐẢM LÀ CHÍNH MÌNH TRONG THẾ GIỚI HIỂM NGUY

Đừng gọi đó là bất định – hãy gọi là bất ngờ

Đừng gọi nó là bất an – hãy gọi là tự do.

Dũng cảm không phải là không sợ hãi, mà thay vào đó là sự hiện diện của toàn bộ nỗi sợ hãi và lòng can đảm để đối mặt với nó.

“Can đảm biến thách thức thành sức mạnh” giúp bạn có cái nhìn toàn diện về nỗi sợ hãi: nguồn gốc của nỗi sợ và làm thế nào để hiểu chúng, tìm thấy can đảm để đối mặt với chúng.

Xuyên suốt cuốn sách, Osho khuyên chúng ta rằng: mỗi khi phải đối mặt với sự không chắc chắn, hay thay đổi trong cuộc sống, đó thực sự là một lý do để bạn vui mừng, thay vì bám víu vào những điều quen thuộc, chúng ta có thể xem những tình huống này là cơ hội khám phá và làm giàu sự hiểu biết về bản thân và thế giới xung quanh.

“Can đảm biến thách thức thành sức mạnh” bắt đầu bằng một sự khám phá sâu sắc về ý nghĩa của lòng can đảm và cách nó được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Không giống như những cuốn sách khác tập trung vào các hành động can đảm anh hùng trong những hoàn cảnh đặc biệt, điều đặc biệt ở cuốn sách này đó là phát triển lòng can đảm bên trong của mỗi người, từ đó bạn có thể thoát ra khỏi sự nhút nhát, lo sợ để biến thách thức thành sức mạnh. Khi đó bạn vững vàng để sống thật với chính mình. Đây chính là sự can đảm để thay đổi khi cần thay đổi, can đảm đứng lên cho sự thật của chính chúng ta, thậm chí chống lại ý kiến của người khác, và can đảm để nắm lấy cái mà không biết mặc dù chúng ta sợ hãi - trong mối quan hệ của chúng ta, trong sự nghiệp của chúng ta, hoặc trong hành trình đang diễn ra của sự hiểu biết chúng ta là ai, và tại sao chúng ta lại ở đây? Hãy tin tưởng vào cái không biết. Cái đã biết chính là tâm trí. Cái không biết không thể là tâm trí. Tâm trí là nơi tích lũy những thứ đã biết. Như việc bạn đến ngã ba đường, tâm trí của bạn sẽ nói: “Đi lối này, đây là con đường quen thuộc”. Nếu lắng nghe nội tâm, bạn sẽ đi theo cái không quen thuộc, cái không biết. Vì chính bản thân của mỗi người luôn thích phiêu lưu, khám phá. Cho nên, hãy luôn lắng nghe cái không biết và thu hết can đảm để đi vào chốn vô định.

Qua cuốn sách bạn sẽ hiểu hơn về sự can đảm là đánh đổi cái đã biết để tìm đến cái hư vô, đánh đổi cái quen thuộc để tìm đến những điều xa lạ, đánh đổi sự tiện nghi ấm cúng để tìm đến cái bất tiện, đánh đổi cuộc hành hương gian nan để tìm đến một nơi vô định. Không ai biết được liệu mình có làm được hay không cho đến khi chính bạn phải bước vào những nỗi đau, thì khi đó bạn mới tin rằng không có điều gì là giới hạn trong sự chế ngự của sức mạnh can đảm ở mỗi con người.

Can đảm biến thách thức thành sức mạnh là cuốn sách kế tiếp trong bộ bốn cuốn của hiền triết Osho gồm: Sáng tạo bừng cháy sức mạnh bên trong; Hạnh phúc tại tâm; Thân mật - cội nguồn của hạnh phúc; Đạo - con đường không lối.

Mong rằng với những cuốn sách này sẽ đem lại sự bình an, an lạc trong tâm hồn và là liều thuốc chữa lành bạn trong những vết thương lòng, là điểm tựa vững vàng để bạn vượt qua mọi rào cản, sóng gió vượt lên chính mình, để tìm ra con đường đúng đích mà bạn đi tới.

ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ:

Osho (1931-1990) là một vị đạo sư hết sức kỳ lạ của thế kỷ hai mươi. Tên thật của ông là Rajneesh Chandra Mohan Jain. Khoảng trong thập kỷ 70 người ta biết đến ông với tên Bhagwan Shree Raineesh. Tháng 2 năm 1989, ông tự đổi tên là Osho.

Osho vốn là danh xưng tiếng Nhật Bản cổ, có nghĩa là "đạo sư" của một dòng Thiền. Osho để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ với hàng trăm cuốn sách và vô số các bài thuyết giảng. Ông là một người gây nên rất nhiều tranh cãi trong số những ai quan tâm đến triết học phương đông, trong giới những người tầm cầu tôn giáo và đạo sư. Có thể nói, ông là một trong những người gây phân hóa cùng cực nhất về mặt đạo lý, nhưng cũng là người có sức thu hút mạnh mẽ nhất trong các bài giảng về tôn giáo và triết học.

Nhân cách của Osho có một sức thu hút mãnh liệt, nó biểu hiện trong những bài luận giải xuất chúng của ông về mọi vấn đề tôn giáo và triết học, kể cả về các bộ kinh lâu đời nhất mà nhiều vị luận sư đã dày công trình bày. Những ai đã gặp ông đều thừa nhận Osho có một tài hùng biện đầy ma lực, một sự hấp dẫn cá nhân mà người nghe hầu như không thể cưỡng lại.

osho - ươm mầm

osho - ươm mầm

Trẻ em có sự tự do chân thực. Các em vui tươi, thích nô đùa và sáng tạo một cách tự nhiên. Nhưng khi lớn lên, hầu hết các em đều hiến mình cho những vị thánh mang tên “năng suất” và “hành vi đúng mực” chỉ để rồi phải luyến tiếc những tháng ngày thơ ấu. Osho nói: “Trải nghiệm thời thơ ấu ám ảnh những người thông minh suốt cả cuộc đời. Họ muốn có nó một lần nữa - sự ngây thơ đó, điều kỳ diệu đó, vẻ đẹp đó”. Và dù cho thế hệ người lớn nào cũng thề thốt, với những ý định tốt đẹp nhất, rằng sẽ không bao giờ lặp lại sai lầm của quá khứ, họ lại luôn áp đặt lên thế hệ kế cận những hạn chế mà chính mình đã thừa hưởng. 

Cuốn sách “Ươm mầm” phát động một “phong trào giải phóng trẻ em” nhằm phá vỡ những khuôn mẫu cũ kỹ và tạo cơ hội cho một phương thức liên kết loài người hoàn toàn mới. Nó sẽ hướng dẫn người lớn nhận thức tình trạng bị áp đặt của chính mình khi liên hệ với trẻ em. Và với nhận thức ấy, họ sẽ biết được khi nào cần nuôi nấng và bảo vệ, khi nào cần đứng tránh sang một bên để trẻ em có thể bộc lộ những tiềm năng lớn nhất và đạt được hạnh phúc cao nhất.

------------------------

Thế kỷ XX đã chứng kiến những tiến bộ vượt bậc của khoa học và công nghệ làm nền tảng thúc đẩy sự phát triển của nhân loại trên nhiều phương diện. Đây cũng là thời kỳ mà các quan hệ quốc tế đã phát triển như một “thế giới phẳng” mà ở đó, không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù thuộc hệ thống kinh tế xã hội nào có thể tồn tại và phát triển khi tách rời hệ thống.

Cùng với sự phát triển trên phương diện vật chất, nhân loại cũng chứng kiến sự nở rộ của hệ các tư tưởng, giá trị mang tính hiện sinh, hướng đến phát triển con người mới, xã hội mới trên cơ sở khai thác những giá trị cốt lõi, bản chất tự thân bên trong mỗi con người. Đại diện cho dòng tư tưởng này có thể kế đến như: Osho, Gurdjieff, J. Krishnamurti... Trong đó, Osho – nhà triết học, bậc thầy tâm linh người Ấn Độ là nhân vật có nhiều tư tưởng gây nên những tranh luận, ý kiến khác nhau tại nhiều quốc gia trên thế giới. Trong suốt cuộc đời mình, ông đã đến nhiều quốc gia, thuyết giảng nhiều vấn đề lớn. Trong các bài thuyết giảng, ông đặt ra trọng tâm vấn đề phát triển tâm thức của từng người ngay trong thực tế cuộc sống đời thường; hướng đến sống có ý thức trong mọi suy nghĩ, hành động, tư tưởng, tình cảm mà không bị lệ thuộc, ràng buộc bởi những nguyên tắc, định kiến xã hội... Ở Osho, chúng ta nhận thấy tư tưởng của ông có phần cực đoan khi quá đề cao cái tôi tự thân, mà phê phán các nguyên tắc, lễ giáo, phong tục – vốn vẫn là một trong những yếu tố góp phần ổn định trật tự xã hội từ bao đời nay. Tuy nhiên, hiện nay con người đang có tầm mức trí tuệ ngày càng hiện đại, lại quá tập trung vào những vấn đề cuộc sống vật chất mà gần như lãng quên việc phải tìm hiểu tâm thức bên trong, thì việc mỗi người quay lại “thức tỉnh thân tâm” để có cái nhìn toàn diện, thấu hiểu quy luật phát triển và hành động theo quy luật đó mà không bị chi phối bởi những ham muốn, những thúc giục của thói ích kỉ cá nhân là điều rất cần thiết. Và để đạt được điều đó, theo Osho không còn con đường nào hơn là mỗi người phải tự quan sát, tỉnh táo chứng kiến và suy ngẫm tất cả mọi việc từ nhiều phía để có cách ứng xử phù hợp.

Tuy nhiên, những bài thuyết giảng của Osho trong một thời gian dài đã hứng chịu nhiều chỉ trích, lên án, thậm chí bản thân ông bị ngăn cấm, trục xuất, bởi lẽ những tư tưởng của ông không phải ai cũng có thể hiểu và đồng tình, chấp nhận trong một sớm một chiều. Vì vậy, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi vẫn còn đâu đó những đánh giá, chê bai, công kích Osho dưới những góc nhìn khác nhau. Song ở đây, chúng tôi mong rằng khi tiếp cận với tư tưởng của ông, mỗi chúng ta cần có một cái nhìn khách quan trên tinh thần học thuật vô tư, trong sáng, có sự phân tích, suy ngẫm, tự đúc rút và chắt lọc cho mình những ý nghĩa giá trị phù hợp với bản thân, văn hóa, xã hội nơi mình đang sống.

Trên tinh thần đó, Công ty Cổ phần sách Thái Hà phối hợp với Nhà xuất bản Hà Nội gửi đến độc giả một số ấn phẩm của Osho có tựa đề: Đạo, Thiền, Tantra, Đức Phật, Upanishad, Đàn ông, Phụ nữ, Ươm mầm... Các ấn phẩm là tập hợp những bài thuyết giảng, đối thoại của Osho được tập hợp, sắp xếp dịch theo các chủ đề khác nhau. Chúng tôi hy vọng, thông qua những ấn phẩm này, độc giả hiểu hơn về Osho, về tư tưởng của ông và tìm thấy cho mình những suy ngẫm và cách ứng xử phù hợp, để nâng cao giá trị bản thân và góp phần làm nên những điều tốt đẹp cho xã hội mình đang sống.

Mục lục:

Lời ngỏ............................................................. 7

Tóm lược ........................................................ 11

Những phẩm chất của trẻ em ..........................13

Thích vui đùa ..........................................................14

Thông minh .............................................................16

Ngây thơ.................................................................20

Mang thai, sinh nở, thơ ấu ............................. 33

Áp đặt ............................................................ 63

Nuôi nấng một đứa trẻ mới ............................ 85

Những chu kỳ bảy năm của cuộc đời ................. 100

Lời khuyên cho các bậc cha mẹ ..................... 127

Thanh thiếu niên ..........................................167

Giáo dục ...................................................... 201

Học là gì? ............................................................. 201

Giáo dục năm chiều ............................................. 222

Hòa giải với bố mẹ ........................................261

Thiền ........................................................... 285

Các kiểu thiền .............................................. 299

Thiền lảm nhảm .................................................. 299

Thiền dành cho trẻ em từ 12 tuổi trở xuống .......302

Thiền dành cho trẻ em trên 12 tuổi .....................303

Quay trở lại tử cung ............................................ 303

Cảm nhận sự tĩnh lặng của tử cung ...................304

Đi từ tiêu cực đến tích cực ................................... 305

Thiền cười ............................................................ 307

Giải tỏa căng thẳng trên khuôn mặt ..................308

Chuyển từ khối óc sang trái tim .........................309

Thư giãn ............................................................... 310

Tìm lại thiên đường ......................................313

Trích đoạn sách:

NUÔI NẤNG MỘT ĐỨA TRẺ MỚI

Nếu bạn nhìn khuôn mặt của những em bé vừa chào đời, tràn đầy tươi mới, sự tươi mới đến từ chính khởi nguồn sự sống, bạn sẽ thấy sự hiện diện nhất định của một điều gì đó không thể gọi tên, không thể định nghĩa.

Đứa bé tràn đầy sức sống. Bạn không thể định nghĩa sức sống này nhưng nó ở đó, bạn có thể cảm thấy nó. Nó dồi dào đến nỗi dù mù lòa đến đâu, bạn cũng không thể không thấy nó được. Nó thật tươi mới. Bạn có thể ngửi thấy sự tươi mới quanh một đứa trẻ. Mùi hương ấy dần dần, từ từ biến mất. Đứa bé đã đến thế giới này với một mùi hương ngào ngạt, không thể đong đếm được, không thể định nghĩa được, không thể gọi tên được. Hãy nhìn vào đôi mắt trẻ thơ – không ai có thể thấy thứ gì sâu hơn thế. Đôi mắt trẻ thơ là một vực sâu thăm thẳm. Khi trẻ dần dần lớn lên, đôi mắt ấy sẽ bị các lớp màng che phủ, đó là tầng tầng lớp lớp áp đặt, sự sâu sắc ấy, sự sâu sắc đến vô cùng ấy hẳn đã biến mất từ lâu. Và đó là khuôn mặt nguyên bản của trẻ.

Đứa trẻ không có suy nghĩ. Trẻ có thể nghĩ về cái gì được đây? Việc suy nghĩ đòi hỏi phải có một quá khứ, việc suy nghĩ đòi hỏi phải có những vấn đề. Trẻ không có quá khứ, trẻ chỉ có tương lai. Trẻ chưa gặp phải vấn đề gì cả, trẻ đang không có vấn đề gì hết. Trẻ không thể suy nghĩ vào lúc này.

Trẻ có thể nghĩ về cái gì được chứ? Trẻ có nhận thức nhưng không có suy nghĩ. Đó là khuôn mặt nguyên bản của trẻ.

Đó cũng là khuôn mặt của bạn và mặc dù bạn đã quên mất nó, nó vẫn ở đó, bên trong bạn, chờ đợi đến một ngày nào đó bạn sẽ tái khám phá nó. Tôi nói là tái khám phá vì bạn từng khám phá nó rất nhiều lần trong những kiếp trước và hết lần này đến lần khác, bạn cứ quên mất nó.

Thậm chí trong kiếp này, có những khoảnh khắc mà bạn đã đến rất gần, sắp nhận ra được nó, cảm nhận được nó, trở thành nó. Nhưng thế giới này có quá nhiều điều tác động lên chúng ta. Lực kéo của nó thật đáng sợ và thế giới đang kéo bạn đi một nghìn lẻ một hướng khác nhau. Nó đang kéo bạn đi nhiều hướng đến nỗi bạn đang vỡ tan thành từng mảnh. Việc người ta xoay xở để giữ cho bản thân mình toàn vẹn đúng là một phép màu. Nếu không, bàn tay này sẽ đi về phía Bắc, bàn tay kia đi về phía Nam, cái đầu hẳn là hướng lên thiên đường, tất cả những mảnh cơ thể sẽ bay đi khắp chốn. Chắc chắn phải có phép màu thì bạn mới có thể tiếp tục giữ cho bản thân mình toàn vẹn. Có lẽ áp lực từ mọi phía là quá lớn nên bàn tay, bàn chân và đầu óc bạn không thể bay đi nổi. Bạn đang bị ép từ mọi phía.

Thậm chí, nếu có cơ hội gặp được khuôn mặt nguyên bản của mình, bạn sẽ không thể nhận ra nó, nó sẽ như một người xa lạ. Có lẽ bạn đã từng đi ngang qua nó một lần nào đó, hoàn toàn ngẫu nhiên, nhưng bạn thậm chí không cất được tiếng chào! Đó là một người lạ và có thể, nơi sâu thẳm trong lòng bạn luôn có một nỗi sợ hãi nhất định dành cho một người xa lạ.

Bạn đang hỏi làm thế nào chúng ta có thể giữ lại được khuôn mặt nguyên bản của con cái mình. Bạn không phải làm gì trực tiếp cả; bất cứ việc gì làm một cách trực tiếp cũng sẽ trở thành sự quấy rầy. Bạn phải học nghệ thuật không làm gì cả.

Đó là một nghệ thuật rất khó. Không phải là để bảo vệ hay giữ gìn khuôn mặt nguyên bản của trẻ mà bạn phải làm gì đó. Bất cứ việc gì bạn làm cũng sẽ gây xáo trộn khuôn mặt nguyên bản. Bạn phải học cách không làm gì cả; bạn phải học cách đứng sang một bên, không can thiệp vào trẻ. Bạn phải rất can đảm vì việc để trẻ một mình ẩn chứa nhiều rủi ro.

Trong suốt hàng nghìn năm, người ta đã bảo chúng ta rằng nếu để trẻ em một mình, chúng sẽ trở thành người rừng. Hoàn toàn không phải vậy. Tôi đang ngồi trước mặt bạn – bạn có nghĩ tôi là người rừng không? Và trước giờ, tôi đã sống mà không bị bố mẹ can thiệp. Đúng, có rất nhiều rắc rối đến với bố mẹ tôi và cũng sẽ có nhiều rắc rối đến với bạn, nhưng nó xứng đáng. Khuôn mặt nguyên bản của đứa trẻ giá trị đến mức bất cứ rắc rối nào cũng là xứng đáng. Nó đáng giá đến mức vì nó, dù bạn có phải trả giá nào đi nữa thì vẫn rẻ; bạn đang chẳng mất gì mà vẫn có được nó. Và niềm vui vào cái ngày mà bạn thấy con vẫn còn khuôn mặt nguyên bản, vẫn còn vẻ đẹp mà con đã mang tới thế giới này, vẫn còn sự ngây thơ, vẫn còn sự trong trẻo, vẫn còn sự vui nhộn, hào hứng, vẫn sức sống tràn trề… Bạn còn hy vọng điều gì hơn thế nữa?

Bạn không thể cho con gì cả, bạn chỉ có thể lấy đi mà thôi. Nếu bạn thật sự muốn trao cho con một món quà, món quà duy nhất có thể trao chính là: Đừng can thiệp. Hãy chấp nhận rủi ro và để cho con đi tới mảnh đất chưa ai biết tới, chưa ai đặt chân tới.

Đó là một việc khó khăn. Một nỗi sợ hãi lớn lao bao trùm lên các bậc cha mẹ: Ai mà biết được điều gì sẽ xảy ra với trẻ? Từ nỗi sợ hãi ấy, họ bắt đầu nhào nặn một mô hình cuộc đời nhất định cho đứa trẻ. Từ nỗi sợ hãi ấy, họ bắt đầu hướng trẻ đến một con đường cụ thể, tới một mục tiêu cụ thể nhưng họ không biết rằng vì nỗi sợ hãi ấy, họ đang làm ảnh hưởng đến trẻ.

Sigmund Freud có một quan điểm rất sâu sắc về vấn đề này. Ông nói: “Nền văn hóa nào cũng tôn kính người cha. Không có nền văn hóa nào đang tồn tại, hoặc từng tồn tại, mà không ca ngợi, tuyên truyền ý tưởng phải kính trọng người cha. Sự tôn trọng dành cho người cha phát sinh vì khi ngược dòng thời gian về thời tiền sử, chắc hẳn người cha từng bị chính những đứa con của mình giết hại chỉ để thoát khỏi sự kìm kẹp.”

Một ý tưởng kỳ lạ nhưng rất quan trọng. Ông ta nói rằng sự tôn trọng được dành cho người cha là xuất phát từ cảm giác tội lỗi và mặc cảm tội lỗi ấy đã được truyền qua hàng nghìn năm. Ở nơi nào đó… đây không phải là một sự thật lịch sử mà là một bí ẩn rất ý nghĩa, những người trẻ hẳn đã phải giết cha mình rồi cảm thấy hối hận – đương nhiên rồi, vì đó là cha họ. Nhưng ông ấy đã khiến họ đi theo con đường sống mà họ không hạnh phúc. Họ giết cha nhưng rồi họ hối hận. Rồi họ bắt đầu thờ phụng linh hồn của các bậc tổ tiên, các bậc ông cha vì sợ hãi rằng những con ma của các bậc tiền bối ấy có thể sẽ trả thù. Và rồi dần dần, từ từ, việc thể hiện lòng tôn kính với các bậc lão thành trở thành một tục lệ. Nhưng tại sao?

Tôi muốn bạn hãy tôn trọng con trẻ. Trẻ em xứng đáng hưởng tất cả sự tôn trọng mà bạn có vì chúng thật tươi mới, thật ngây thơ, thật thánh thiện. Đã đến lúc thể hiện sự tôn trọng trẻ em thay vì buộc chúng phải tôn kính những người không xứng đáng chỉ vì họ lớn tuổi hơn. Tôi muốn đảo ngược mọi thứ lại: tôn trọng trẻ em vì chúng gần với nguồn cội; bạn thì đang ở rất xa. Chúng vẫn còn là nguyên bản còn bạn thì đã là một bản sao. Và bạn có hiểu việc bạn tôn trọng trẻ em ấy có tác dụng gì không? Nhờ tình yêu và lòng kính trọng, bạn có thể cứu chúng khỏi việc đi lầm đường lạc hướng, không phải vì sợ hãi mà vì bạn tôn trọng và yêu thương chúng.

từ bi

từ bi

Từ bi là một thứ tình thương mát lành, là sự chia sẻ niềm vui của bản thân đến với vạn vật. Từ bi giúp ta trở thành đóa hoa sen, vượt lên vũng bùn của thế giới ham muốn, dục vọng và sự giận dữ.

Dẫn dắt người đọc qua câu chuyện về cuộc đời Đức Phật, Chúa Jesus và những hiểu biết về Thiền đạo, Osho đặt ra thách thức cho các giả định về từ bi là gì và gạt bỏ những sai lầm, định kiến, khám phá ý nghĩa thực sự ẩn sau đó.

“Từ bi không phải là cái mà chúng ta vẫn gọi là tình yêu. Nó mang yếu tố cốt lõi của tình yêu nhưng lại không phải là tình yêu như chúng ta vẫn biết”, Osho viết.

Theo Osho, lòng từ bi đích thực không chỉ đến từ hiểu biết và tôn trọng người đối diện, mà phải bắt đầu từ bên trong - chúng ta cần thực sự chấp nhận và yêu thương bản thân mình một cách sâu sắc. Chỉ như vậy, lòng từ bi mới giúp ta chấp nhận người khác một cách vô điều kiện, giúp chúng ta nhìn nhận chân giá trị của mỗi con người. Khi đó, từ bi giúp ta kết nối được cái sâu lắng nhất bên trong người đối diện - chính là tâm hồn của họ. Khi hai tâm hồn có thể kết nối, một dạng thức cao nhất của tình thương sẽ nảy sinh: từ bi.

Vậy, làm thế nào để có được sự từ bi? Trong cuốn sách này, Osho nhấn mạnh vai trò của thiền. Ông viết: “Nếu không có thiền, nguồn năng lượng trong bạn chỉ tồn tại dưới dạng thức đam mê; nhưng nếu có thiền, nó sẽ chuyển hóa thành lòng từ bi”. Ông cho rằng con người không thể luyện tập để trở nên từ bi, “nếu thiền là một bông hoa, thì từ bi chính là hương thơm”.

Nếu như bạn muốn biết thế nào là từ bi, muốn tìm kiếm cảm hứng, niềm vui và nguồn năng lượng tích cực, hoặc đơn giản là muốn tìm hiểu thêm một đầu sách ý nghĩa khác của Osho, cuốn sách Từ bi chắc chắn sẽ là một lựa chọn sáng suốt.

trò chuyện với vĩ nhân

trò chuyện với vĩ nhân

Trò Chuyện Với Vĩ Nhân

“Trò chuyện với vĩ nhân” tổng hợp những câu chuyện của thiền sư Osho về 20 triết gia, nhà tư tưởng, đạo sư lỗi lạc nhất lịch sử.

Danh sách những bậc vĩ nhân Osho bàn đến rất đa dạng: Ở phương Đông có Lão Tử, Trang Tử; phương Tây có Socrates, Pythagoras, J. Krishnamurtri, Heraclitus, những nhà lãnh đạo tôn giáo như Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Đề Đạt Ma, Jesus Christ…

Dưới ngòi bút sắc sảo của Osho, cuộc đời, tư tưởng và hành trình giác ngộ của những bậc vĩ nhân hiện lên đầy sống động. Ông kể về thời thơ ấu bất hạnh của Krishnamurti, cái chết của Socrates, cuộc gặp gỡ giữa Khổng Tử với Lão Tử hay khoảnh khắc chứng ngộ của ni sư Chiyono.

Osho bình luận về tư tưởng của những nhà tư tưởng, những triết gia bằng sự hiểu biết và trải nghiệm uyên bác, nhưng đồng thời, dưới một góc nhìn giàu cảm xúc và tuyệt đối cá nhân, ông hết lời tán thưởng tư tưởng của những vị triết gia ông yêu, viết về họ đầy hài hước và sự hoan hỉ.

Nhưng song song đó, Osho cũng thẳng thừng chê bai và chỉ ra những quan điểm ông không đồng tình ở những nhân vật được bàn đến. Chẳng hạn, Osho cho rằng những lời dạy của Krishnamurti là “quá nghiêm túc” và “chưa chạm đến trái tim con người”.  Hoặc, ông bình luận về tư tưởng của Friedrich Nietzsche – triết gia người Đức: “Chúng là những ngôn từ chết; chúng không có hơi thở, không có nhịp đập của trái tim”.

Qua mỗi bài viết, Osho truyền tải đến bạn đọc những điều ông xem là “chân lý”, liên quan đến tôn giáo, thiền định, bản chất của niềm vui sống. Vị đạo sư đặc biệt ca ngợi sự hài hước trong tôn giáo, thái độ sống tự nhiên, nổi loạn hay sự hoà mình vào dòng chảy cuộc sống.  

Sách đưa ra nhiều kiến thức về thiền định: lý do ta cần thiền, ý nghĩa của sự sống và cái chết, lợi ích của thiền định đến cơ thể và tâm thức mỗi người, thông qua những lời giảng giải đơn giản với ngôn từ dễ hiểu của Osho về sự bình an, lòng trắc ẩn, sự minh triết, v.v... và những câu chuyện thực tế về cuộc đời và hành trình giác ngộ của các vĩ nhân như Bồ Đề Đạt Ma, Phật Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử, Socrates v.v...

Những điều này, thật đáng ngạc nhiên, khiến người đọc liên hệ mạnh mẽ đến cuộc sống hiện đại, vốn ngày một nhiều bất trắc, xung đột và khó lường. Đâu đó, Osho khuyến khích (hoặc tiếp sức) cho chúng ta không ngừng đấu tranh và làm mới chính mình, thừa nhận những nghịch lý đồng thời trân trọng những vẻ đẹp mà cuộc đời ban tặng.

“Cuộc sống giống như bài thơ hơn là một món đồ ngoài chợ, nó phải giống như một bài thơ, một ca khúc, một vũ điệu, một bông hoa ven đường, bung nở tự nhiên, gửi hương cho gió, không hướng tới bất kỳ ai, chỉ đơn giản tận hưởng chính mình, được là chính mình”, ông nói.

thân mật cội nguồn của hạnh phúc (tái bản 2020)

thân mật cội nguồn của hạnh phúc (tái bản 2020)

Mọi người đều e ngại sự thân mật – đây là điều có thực, dù bạn nhận ra nó hay không. Thân mật có nghĩa là phơi bày chính mình trước một người xa lạ; tất cả chúng ta đều là những con người xa lạ, không hề quen biết nhau. Chúng ta thậm chí còn xa lạ với chính mình bởi ta không biết mình là ai.  

Sự thân mật khiến con người xích lại gần nhau hơn. Bạn phải từ bỏ mọi sự phòng thủ, chỉ có như thế mới tạo được sự thân mật. Và bạn lo sợ rằng nếu bạn tháo gỡ hết những rào chắn, mọi lớp áo bảo vệ thì ai biết được cái người xa lạ kia sẽ làm gì với bạn đây.

Có đến nghìn lẻ một thứ mà chúng ta đang cố che giấu, không chỉ với người khác mà còn với chính bản thân mình, bởi chúng ta trưởng thành trong một xã hội với đủ kiểu ngăn cản, cấm kỵ. Và với một người xa lạ - bất kể bạn có sống cùng người đó trong 30 hay 40 năm, sự xa lạ vẫn không bao giờ mất đi - bạn cảm thấy an toàn hơn khi giữ lại chút phòng vệ, chút khoảng cách, bởi ai đó có thể lợi dụng những điểm yếu, những phần dễ tổn thương của bạn.  

Nhưng vấn đề càng trở nên phức tạp hơn bởi không ai muốn xa cách. Mọi người đều muốn thân mật với người khác bởi nếu không, họ sẽ trở nên lạc lõng giữa thế giới rộng lớn này – không bạn bè, không người thương yêu, không một ai để tin cậy, để cởi mở tấc lòng và phô ra những vết thương âm ỉ. Vết thương không thể lành da, trừ phi bạn gỡ khỏi nó mọi thứ bưng bít, che đậy. Bạn càng che giấu, vết thương càng trở nên nguy hiểm, thậm chí có thể gây chết người.  Thế nhưng, mọi người lại ngại thân mật – bạn muốn thân mật với người khác nhưng vẫn không muốn từ bỏ “chiếc áo giáp sắt” của mình. Đây là một trong những điểm đối lập giữa bạn bè, giữa những người yêu: Không ai muốn từ bỏ lớp rào chắn bảo vệ, và không ai muốn cởi mở hay chân thành tuyệt đối – tuy nhiên cả hai đều mong mỏi sự thân mật. Do đó, bạn phải là người khởi xướng. Bằng sự gần gũi và tình yêu, bằng cách cởi mở với nhiều người khác, bạn sẽ càng trở nên giàu có. Và nếu có thể sống trong tình yêu sâu sắc, trong tình bạn bền chặt, trong sự gần gũi thân thiết với nhiều người, tức là bạn đã có một cuộc sống đúng nghĩa. Và cho dù ở đâu, bạn đều học được cách sống và sống hạnh phúc.  

Thân mật có nghĩa là mọi cánh cửa của trái tim đều mở ra chào đón bạn: bạn được mời vào và được đón tiếp như một vị khách. Nhưng điều đó chỉ xảy ra nếu bản năng giới tính của bạn không bị đè nén, lòng bạn không sục sôi những điều trụy lạc, và tâm hồn bạn phải thuần khiết. Tự nhiên như cây cỏ, trong sáng như một đứa trẻ - khi đó bạn sẽ không còn ngại thân mật. Thân mật cũng có nghĩa là tin tưởng ở chính mình và người khác.  

Đó cũng chính là điều mà Osho đang tìm cách giúp bạn thực hiện: gỡ bỏ những thứ cột trói trong vô thức, để tâm trí bạn được thảnh thơi và trở nên bình dị. Không có gì đẹp đẽ hơn khi là một người đơn giản và bình dị. Khi đó, bạn có thể có bất kỳ người bạn thân thiết nào, bất kỳ mối quan hệ gần gũi nào bởi bạn không còn e ngại điều gì. Bạn sẽ giống như một trang sách mở mà bất cứ ai cũng có thể đọc. Chẳng có gì để che giấu.  

Con người cần phải sống một cuộc sống trọn vẹn, tràn ngập niềm vui, và giống như một cuốn sách mở, luôn sẵn sàng cho bất cứ ai muốn đọc. Hãy sống, thay vì nghĩ đến việc sẽ được mọi người nhớ tới. Sớm muộn gì bạn cũng phải chết. Hàng triệu con người đã sống trên trái đất này và chúng ta thậm chí còn không hề biết tên họ.  

Hãy chấp nhận sự thật đơn giản đó - bạn chỉ có mặt ở đây một số ngày rồi sẽ ra đi. Đừng lãng phí số ngày ngắn ngủi ấy vào những hành động giả dối hay nỗi lo sợ không đâu. Đó phải là khoảng thời gian đầy hân hoan và vui sướng bởi không ai biết trước được tương lai của mình. Thiên đường hay địa ngục có lẽ đều là những giả thuyết chưa được chứng minh. Điều duy nhất bạn đang nắm giữ trong tay chính là cuộc đời mình – hãy làm cho nó phong phú nhất trong khả năng của bạn.  

Bằng sự gần gũi và tình yêu, bằng cách cởi mở với nhiều người khác, bạn sẽ càng trở nên giàu có. Và nếu có thể sống trong tình yêu sâu sắc, trong tình bạn bền chặt, trong sự gần gũi thân thiết với nhiều người, tức là bạn đã có một cuộc sống đúng nghĩa. Và cho dù ở đâu, bạn đều học được cách sống và sống hạnh phúc.  

Nếu sống đơn giản, cởi mở, gần gũi, yêu thương mọi người, bạn sẽ tạo ra thiên đường cho chính mình. Nếu bạn sống khép kín, luôn trong tư thế phòng thủ, luôn lo lắng rằng ai đó có thể biết được suy nghĩ của bạn, giấc mơ của bạn, những sai lầm của bạn, thì cuộc sống đó chẳng khác nào địa ngục. Địa ngục ở ngay trong bạn – và thiên đường cũng vậy. Đó không phải là vị trí địa lý mà là không gian tinh thần của bạn.  

Hãy thanh lọc bản thân. Thiền có nghĩa là quét dọn tất cả những thứ rác rưởi đọng trong tâm trí bạn. Khi tâm tĩnh lặng và trái tim reo ca, bạn sẽ sẵn sàng cởi mở và trở nên thân mật với người khác mà không có bất kỳ nỗi sợ hãi nào. Khi có sự thân mật, vây quanh bạn sẽ là bạn bè và những người thân quý; nếu không, bạn sẽ thấy mình cô đơn giữa những người xa lạ. Thân mật là một trải nghiệm tuyệt vời mà mỗi người chúng ta đều không nên bỏ lỡ. 

Thông tin về tác giả Osho:

-  Tên thật là Chandra Mohan Jain, sinh ngày 11/12/1931, tại bang Madhya Pradesh, Ấn Độ

- 1951: Học Đại học Hatkirini và sau đó là Đại học Jain tại Jabalpur

- 1953: Chứng ngộ

- 1955: Tốt nghiệp khoa Triết, Đại học Jain và lấy bằng M.A Triết tại Đại học Sagar năm 1957

- 1958: Giảng dạy triết học tại Đại học Jabalpur và thực hiện những cuộc thuyết giảng trong cộng đồng

- 1962: Thành lập những trung tâm Thiền đầu tiên ở vùng quê nơi ông sinh sống và nổi tiếng như một người khơi dậy phong trào thiền học “đánh thức sự sống” (Jivan Jagruti Adolan)

- 1966: Ngừng giảng dạy đại học, dành toàn bộ thời gian cho việc thuyết giảng tâm linh. Lúc này, người ta biết đến ông với tên gọi mới: Acharya Rajneesh

- 1970: Giới thiệu phương pháp Thiền Năng động, hay còn gọi là Thiền Động, Thiền tích cực (Active Meditation). Chuyển đến Mumbai tháng 12/1970

- 1974: Chuyển từ Mumbai đến Pune, thành lập Trung tâm tu học rộng 24.000 m2 với khoảng 50.000 người theo học

- 1980: Bị một tín đồ Ấn Độ giáo đâm bị thương. Vết thương không nặng, nhưng sức khỏe ông bị suy giảm

- 1981: Đến Mỹ chữa bệnh, thành lập một làng tu học rộng 260 km2 tại bang Oregon. Vào thời kỳ cao điểm, có khoảng 200.000 hội viên và 600 trung tâm tu học theo tinh thần của Osho trên toàn thế giới.

- 1987: Bị trục xuất khỏi Mỹ

-1989: Chính thức lấy tên Osho

-1990: Mất ngày 19/01/1990 tại thành phố Pune, Ấn Độ. 

osho - sự hiểu biết

osho - sự hiểu biết

Sự hiểu biết không như những gì nhiều người vẫn nghĩ.

Trước tiên, cần phải hiểu rằng tri thức không phải là sự hiểu biết. Tri thức là biểu hiện của sự hiểu biết. Vẻ bề ngoài đó không phải là cái vốn có của chúng ta mà do ta học hỏi từ người khác.

Sự hiểu biết có được là nhờ vào quá trình phát triển của khả năng nhận thức bên trong. Khả năng nhận thức không phụ thuộc vào kiến thức, nó thường phụ thuộc vào năng lực tư duy. Người thông minh không tách

mình ra khỏi những kinh nghiệm trong quá khứ và anh | ta đối diện với cuộc sống hiện tại. Anh ta là người không từ chối mà luôn thích ứng. Bởi thế mà anh ta lúc nào cũng khó nắm bắt, không một ai có thể biết chắc được những gì anh ta định làm.

Một người Thiên Chúa giáo, một người theo đạo Tin lành và một người Do Thái nói chuyện với một người đàn ông, người này bảo rằng ông ta chỉ còn sống được sáu tháng.

- Anh sẽ làm gì, nếu bác sĩ nói anh chỉ còn sống được sáu tháng. Người đàn ông hỏi người theo đạo Thiên Chúa giáo,

- À! Anh chàng đáp. - “Tôi dành tất cả cho nhà thờ, đi lễ mỗi chủ nhật và thường xuyên thỉnh cầu Đức Mẹ Maria?

- Vậy còn anh? - Người đàn ông hỏi người theo đạo Tin lành.

“Tôi sẽ bán tất cả mọi thứ và đi một vòng quanh thế giới, tôi muốn tận hưởng khoảng thời gian tuyệt vời còn lại của cuộc sống.

Anh thì sao? Ông ta hướng về phía người Do Thái. “Tôi à, tôi sẽ tìm gặp một bác sĩ khác. Đó là sự hiểu biết!

osho đàn ông - the book of men

osho đàn ông - the book of men

Bạn thật may mắn khi được sống trong thời đại này bởi có một điều vô cùng vĩ đại sắp xảy ra – đó là sự gặp gỡ giữa khoa học và tôn giáo, sự gặp gỡ giữa Đông và Tây, sự gặp gỡ giữa hướng ngoại và hướng nội. Điều này sẽ tạo ra một con người mới, một con người có thể dễ dàng đi ra bên ngoài hoặc đi vào bên trong, đi vào thế giới hướng ngoại của khoa học hoặc đi vào thế giới hướng nội của tôn giáo – dễ dàng như khi bạn đi từ trong nhà ra vườn rồi lại quay trở vào nhà. Chẳng có gì khó khăn và bạn không cần sự thỏa hiệp nào cả. Mỗi lần ra khỏi nhà và bước lên bãi cỏ, bạn đâu có cần nhọc sức – bạn cứ thế bước ra mà thôi. Trong nhà lạnh quá còn ở ngoài kia, mặt trời rạng rỡ và ấm áp, bạn bước ra bãi cỏ, bạn ngồi xuống bãi cỏ. Rồi khi bên ngoài trở nên quá nóng, bạn lại đi vào nhà vì bên trong rất mát mẻ, chỉ đơn giản vậy thôi.

Một con người toàn diện sẽ có thể dễ dàng đi vào khoa học và tôn giáo như bạn ra vào nhà mình vậy; cả bên trong lẫn bên ngoài đều thuộc về người đó.

Carl Gustav Jung đã chia con người ra làm hai loại: hướng nội và hướng ngoại. Cách phân loại này có giá trị trong quá khứ nhưng sẽ hoàn toàn vô giá trị trong tương lai, vì con người tương lai sẽ đồng thời là cả hai. Trong quá khứ, chúng ta luôn phân loại theo cách này, nhưng con người tương lai sẽ không là đàn ông mà cũng không là đàn bà. Ở đây, tôi không nói đến khía cạnh sinh học – về mặt sinh học, đàn bà sẽ vẫn là đàn bà, và đàn ông sẽ vẫn là đàn ông. Nhưng về mặt tâm linh, người đàn ông tương lai sẽ có các đặc điểm nữ tính nhiều như người đàn bà, và người đàn bà tương lai cũng sẽ có các đặc điểm nam tính nhiều như người đàn ông. Về mặt tâm linh, sẽ không thể gọi họ là đàn ông hay đàn bà được nữa. Và đó chính là sự giải phóng đích thực – không chỉ là sự giải phóng của người đàn bà mà còn là sự giải phóng của người đàn ông – sự giải phóng khỏi trạng thái tù túng, sự giải phóng khỏi những phân loại mang tính bó buộc, sự giải phóng khỏi mọi tên gọi.

Con người sẽ không còn là người đạo Hindu, người đạo Hồi, người đạo Cơ Đốc; con người sẽ không còn là người Ấn Độ, người Đức, người Anh; con người sẽ không còn là người da trắng hay người da đen. Không phải là không còn màu da – người da trắng sẽ vẫn là người da trắng và người da đen sẽ vẫn là người da đen – mà là những điều này sẽ chẳng còn quan trọng hay mang tính quyết định, chúng chỉ là những điều vụn vặt, vô nghĩa. Con người mới sẽ có một ý thức chung, và nền tảng của nó được tạo ra nhờ sự gặp gỡ giữa khoa học và tôn giáo.

Trong cuốn Đàn ông, tác giả sẽ phân tích các vai trò khác nhau của người đàn ông, cũng như việc họ đã định hình và ảnh hưởng lên xã hội như thế nào. Đồng thời, ông chỉ ra làm thế nào đàn ông có thể chuyển hướng nguồn năng lượng vốn đang dẫn đến bạo lực, hung hăng sang sáng tạo và tiến hoá.

MỤC LỤC:

Lời nói đầu

Phần 1: ADAM Con người đầu tiên

Nạn nhân

Con rô-bốt

Động vật

Cơn điên tình dục

Phần 2: ADAM VÀ EVE

Nam nhi đại trượng phu

Tay chơi

Bạn trai

Người chồng

Người cha

Người bạn

Phần 3: ADAM TRONG THẾ GIỚI

Chính trị gia

Người nổi loạn

Nhà khoa học

Người làm kinh doanh

Chiến binh

Người già

Phần 4: CON NGƯỜI MỚI

Con người mới

Vượt qua nhị nguyên

Người sáng tạo

Người quan sát

Đức Phật

Zorba Đức Phật

Đàn Ông

Trích đoạn sách:

Cơn điên tình dục

Tình dục – đây chính là từ tạo ra sự hoang mang, hỗn loạn. Nó giống như ai đó ném một hòn đá xuống mặt hồ phẳng lặng; hàng triệu gợn sóng cuộn lên – chỉ vì từ tình dục. Nhân loại đã luôn sống dưới những ý tưởng vô cùng sai lầm.

Bạn đã bao giờ để ý thấy rằng đến một độ tuổi nhất định nào đó thì tình dục trở nên rất quan trọng chưa? Không phải do bạn mà nó trở nên quan trọng. Nó xảy ra không phải do bạn; nó xảy ra một cách tự nhiên. Khi đến tuổi 14, khoảng tầm đó, đột nhiên, năng lượng ngập tràn tính dục. Cứ như thể những cánh cửa ngăn lũ bên trong bạn đã bị mở toang ra. Những nguồn năng lượng vi tế mà trước nay chưa từng mở ra đã mở ra và toàn bộ năng lượng của bạn mang đầy tính dục, nhuộm màu dục. Bạn nghĩ, bạn hát, bạn đi đều mang tính dục – mọi thứ đều mang tính dục. Mọi hành động đều được nhuộm màu. Chuyện này xảy ra; bạn chẳng làm gì cả. Nó là tự nhiên. Việc vượt lên trên tình dục cũng là tự nhiên. Nếu tình dục được sống theo một cách trọn vẹn, không lên án nó, không có ý muốn loại bỏ nó thì đến tuổi 42 – cũng như khi đến tuổi 14 thì tình dục được mở ra và toàn bộ năng lượng mang đầy tính dục, đến tuổi 42 hoặc khoảng tầm đó, những cánh cửa ngăn lũ kia sẽ đóng lại. Chuyện này cũng là tự nhiên, chẳng khác gì chuyện tình dục trở nên sôi động; nó bắt đầu biến mất dần.

Bạn không thể vượt lên trên tình dục nhờ bất kỳ nỗ lực nào từ phía bản thân. Dù bạn làm gì thì cũng sẽ chỉ khiến nó bị áp chế, vì nó không có liên quan gì đến bạn. Nó có sẵn ở trong cơ thể bạn, trong trạng thái sinh học của bạn. Bạn được sinh ra là một sinh vật có tính dục; chuyện này chẳng có gì sai cả. Đây là cách duy nhất để được sinh ra. Đã là người thì phải có tính dục. Bạn không được thụ thai trong lúc cha mẹ bạn đang cầu nguyện hay đang nghe linh mục thuyết giảng. Lúc đó, họ không ở trong nhà thờ, mà họ đang làm tình. Nhưng ngay cả việc nghĩ rằng khi mình được thụ thai thì cha mẹ đang làm tình cũng có vẻ là một điều khó khăn. Họ đang làm tình; năng lượng tình dục của họ đang gặp nhau và hợp vào nhau. Khi đó, bạn được thụ thai; trong một hành động mang đậm tính dục, bạn được thụ thai. Tế bào đầu tiên là tế bào sinh dục, rồi từ tế bào đó, các tế bào khác được sinh ra. Nhưng về cơ bản, mọi tế bào đều giữ nguyên tính dục. Toàn bộ cơ thể bạn đều mang tính dục, được tạo thành từ các tế bào sinh dục. Giờ chúng lên tới hàng triệu.

Hãy ghi nhớ điều này: Bạn tồn tại với tư cách là một sinh vật có tính dục. Một khi bạn chấp nhận điều này, sự xung đột vốn được tạo ra suốt hàng thế kỷ qua sẽ biến mất. Một khi bạn chấp nhận điều này ở sâu bên trong, không có một ý tưởng nào cắt ngang, bạn coi tình dục chỉ đơn giản là tự nhiên, thì bạn sẽ sống theo nó. Bạn đâu có hỏi tôi làm thế nào để vượt lên trên việc ăn, bạn đâu hỏi tôi làm thế nào để vượt lên trên việc thở – vì chẳng có tôn giáo nào dạy bạn vượt lên trên việc thở, lý do chính là như vậy. Nếu không thì bạn đã hỏi tôi “Làm thế nào để vượt lên trên việc thở?” rồi. Bạn chỉ thở thôi! Bạn là một động vật cần thở. Tương tự như vậy, bạn là một động vật có tính dục. Nhưng có một sự khác nhau ở đây. Mười bốn năm đầu tiên của cuộc đời gần như là không có tình dục, hoặc cùng lắm thì cũng chỉ là những trò chơi tình dục sơ đẳng mà không thật sự là tình dục – chỉ là sự chuẩn bị, sự khởi động, có vậy thôi. Đến tuổi 14, đột nhiên năng lượng này đạt độ chín.

Hãy nhìn xem… Một đứa trẻ được sinh ra – ngay lập tức, trong vòng ba giây, đứa trẻ đó phải thở, nếu không đứa trẻ sẽ chết. Sau đó, việc thở sẽ được duy trì suốt cuộc đời đứa trẻ, vì nó xuất hiện ở bước đầu tiên của cuộc đời. Đứa trẻ không thể vượt lên trên việc thở. Có thể trước khi bạn chết, chỉ ba giây trước đó, nó sẽ dừng lại, nhưng không sớm hơn. Hãy luôn ghi nhớ điều này: Cả hai đầu của cuộc đời, điểm đầu và điểm cuối, đều giống y như nhau, đối xứng nhau. Khi đứa trẻ được sinh ra, đứa trẻ bắt đầu thở trong vòng ba giây. Khi đứa trẻ già cả và hấp hối, khoảnh khắc đứa trẻ dừng thở chính là trong vòng ba giây trước khi chết.

Tình dục xuất hiện ở một giai đoạn rất muộn: Trong vòng 14 năm, đứa trẻ đã sống mà không có tình dục. Và nếu xã hội không quá bị áp chế và do đó không quá bị tình dục ám ảnh thì một đứa trẻ có thể sống mà hoàn toàn không hay biết rằng tình dục, hay bất kỳ thứ gì giống như tình dục, có tồn tại. Đứa trẻ có thể giữ trọn vẹn sự ngây thơ. Sự ngây thơ đó không thể tồn tại bởi mọi người đang bị áp chế quá mức. Khi sự áp chế xảy ra, thì cùng với đó, sự ám ảnh cũng xuất hiện.

Vậy là các linh mục liên tục áp chế và từ đó xuất hiện những người phản linh mục, những Hugh Hefner – họ liên tục tạo ra ngày càng nhiều các văn hóa phẩm đồi trụy. Một bên là các linh mục liên tục áp chế và bên kia là những người phản linh mục, liên tục tìm cách khiến tình dục ngày càng trở nên mê đắm. Họ tồn tại song hành – hai mặt của cùng một đồng xu.

Tôi từng nghe một câu chuyện như sau. Có hai người đàn ông bị phá sản. Vì vậy, họ quyết định thực hiện một mô hình làm ăn, một mô hình làm ăn rất đơn giản. Họ bắt đầu đi du ngoạn, từ thành phố này sang thành phố khác. Một người sẽ đến trước và ban đêm, anh ta sẽ ném nhựa than đá vào các cửa nhà. Hai ba ngày sau, người kia sẽ đến lau dọn. Anh ta sẽ nói rằng mình có thể lau dọn bất kỳ chỗ nhựa than đá nào, lau dọn bất kỳ chỗ bẩn nào, và thế là anh ta sẽ lau dọn các cửa nhà. Trong lúc đó, người trước sẽ đi thực hiện nửa đầu của mô hình làm ăn ở một thành phố khác. Cứ như thế, họ bắt đầu kiếm được nhiều tiền.

Đây chính là câu chuyện của nhà thờ và Hugh Hefner cũng như những người đang ngày đêm tạo ra các văn hóa phẩm đồi trụy.

Họ song hành cùng nhau; họ là đồng lõa trong một âm mưu. Bất cứ khi nào bạn bị áp chế quá mức, bạn sẽ bắt đầu tìm kiếm một thú vui biến thái. Thú vui biến thái mới là vấn đề, tình dục không phải là vấn đề.

Vì thế, đừng bao giờ mang một tư tưởng nào về việc phản đối tình dục, nếu không, bạn sẽ không bao giờ có thể vượt lên trên nó. Những người vượt lên trên tình dục là những người chấp nhận nó một cách rất tự nhiên. Vấn đề không phải là làm thế nào để vượt lên trên tình dục, mà là làm thế nào để vượt lên trên cái hệ tư tưởng của xã hội: sợ tình dục, áp chế tình dục, bị tình dục ám ảnh.

Tình dục vô cùng đẹp. Về bản chất, tình dục là một hiện tượng tự nhiên có tính nhịp điệu. Nó xảy ra khi đứa trẻ sẵn sàng được thụ thai, và nó xảy ra là một điều tốt – nếu không, sự sống sẽ không tồn tại. Sự sống tồn tại thông qua tình dục; tình dục là phương tiện trung gian của nó. Nếu bạn hiểu sự sống, nếu bạn yêu sự sống, bạn sẽ biết tình dục là thần thánh, là thiêng liêng. Và rồi bạn sẽ sống theo nó, và rồi bạn sẽ hân hoan trong nó; và nó sẽ đi, tự nhiên như khi đến, theo cách của riêng mình. Đến tuổi 42, hoặc tầm đó, tình dục bắt đầu biến mất, tự nhiên như khi nó xuất hiện. Nhưng chuyện không xảy ra như thế.

Bạn sẽ ngạc nhiên khi tôi nói khoảng 42 tuổi. Bạn biết có những người 70, 80 tuổi, nhưng họ vẫn chưa vượt lên trên. Bạn biết những người “già đổ đốn”. Họ là những nạn nhân của xã hội. Vì họ không thể tự nhiên nên họ phải hứng chịu những hệ quả tai hại – vì họ áp chế khi đáng ra họ nên tận hưởng và hân hoan. Trong những khoảnh khắc hân hoan, họ không đắm mình trọn vẹn. Họ không đạt đến cực khoái, họ dở dang. Vì vậy, hễ khi nào bạn dở dang trong bất cứ điều gì, nó lưu lại lâu hơn….

bản ngã

bản ngã

Khi chúng ta yêu thương, khi chúng ta cảm thấy được tình yêu thương, cho dù đối với một con người, một con vật, một bông hoa hoặc một buổi hoàng hôn, thì chúng ta được thoát ra khỏi chính mình. Những ham muốn của chúng ta, những sợ hãi và nghi ngờ của chúng ta tan biến  hết. Nhu cầu được thừa nhận tan biến, ta không còn tìm cách để so sánh mình với những người khác nữa, để sống được nhiều hơn những người khác nữa. Tâm hồn chúng ta nổi lên trong khi tất cả chúng ta tràn đầy cảm giác này, khi ấy sự hăng hái hoan hỉ của con tim lan tỏa một cách tự nhiên để ôm hôn tất cả các chúng sinh và vạn vật trong cuộc đời.---

--- Thiếu tự tin ngăn cản ta tiếp cận với các nguồn. Khi tôi nói về các nguồn, tôi chỉ định tất cả mọi khả năng trí tuệ, lý trí hoặc thân thể, tất cả mọi kỹ năng của chúng ta, tất cả sức lực mà chúng ta đang có trong mình, ở đâu đó trong ta mà ta không thường xuyên sử dụng chúng. Các bạn sẽ ngạc nhiên khi nhận thấy rằng các bạn có trong mình nhiều nguồn hơn các bạn tưởng đấy. ---
--- Alice cảm thấy lòng tự ái bị tổn thương ở mức độ cao nhất. Anh xem cô là gì mới được chứ? Chỉ biết quan tâm đến món sô-cô-la nhuyễn thôi ư?
Cô - người vốn rất tự hào với chức danh tư vấn của mình. Cô - người vốn luôn được tôn trọng trong lĩnh  vực của mình. Cô - người đàm phán để đoạt được một hợp đồng quốc tế khủng. Cô – người hàng ngày kiến lập những lời cố vấn gây tác động ảnh hưởng đến hàng ngàn khách hàng...
- Nói lại cho em biết anh có bao nhiêu con chiên?
Anh so vai tỏ dấu hiệu bất lực.
- Chẳng thể làm được gì đâu. Một sự nghiệp bị lỡ dở, quên đi thôi.
Cô chợt cảm thấy mình như một đứa trẻ cứ ngỡ có khả năng bơi qua một cái hồ, và người ta khiến nó hiểu rằng nó bị mắc lừa hoàn toàn.
Lần cuối cùng khi có người đã dự báo trước sự thất bại dành  cho cô, là khi cô vừa bước chân vào công ty với tư cách là thực tập sinh. Cô đã dám trình bày những đề xuất cho một khách hàng trong khi cô chỉ được coi là đảm nhận viết báo cáo ở các cuộc họp. Người ta đã nhẹ nhàng chỉnh đốn cô: đề xuất của cô không trụ được, khách hàng chắc sẽ không muốn. Cô đã khăng khăng nài nỉ, tin chắc vào giá trị những ý tưởng của cô, và đã chiến đấu để có quyền được giới thiệu chúng cho khách hàng. Đề xuất đó đã không chỉ được chấm mà sự áp dụng chúng vào thực tế đã mang lại một thành công vang dội. Đợt thực tập của cô đã được chuyển thành CDI(1).
Tôi không nghĩ là em tinh thông trong các vấn đề về tinh thần đâu. Thật khó nuốt trôi...
(1). CDI: Contrat à durée indéterminnée: Hợp đồng làm việc vô thời hạn. ---
--- Espicète đã nói “Người ta sẽ hủy hoại bạn bắt đầu từ lúc bạn cho rằng người ta hủy hoại bạn”. Nhưng để phán xét một tình hình, cần phải có khả năng phóng mình vào thời tương lai để có một cái nhìn tổng thể lên toàn bộ sự kiện đang được nói tới, những hậu quả thực sự của nó, những gì mà nó dù sao cũng đã đem lại cho chúng ta, những gì mà nó đã tránh được cho chúng ta, và những gì mà chúng ta đã lĩnh hội được qua sự kiện đó... Chỉ với sự bình tâm suy nghĩ lại và chiêm nghiệm thì ta mới có thể biết được tất cả mọi điều.---
--- Nhưng sau một hồi, xuất hiện một thứ cảm giác hoàn toàn xa lạ trào dâng trong cô. Một thứ tình cảm “đã thấy”.
Những lời răn dạy huyền bí mà cô đang đọc nhắc cô nhớ đến những lời răn dạy khác cũng hoàn toàn huyền bí,những lời mà cô ép mình đọc và đọc đi đọc lại mà vẫn không sao thực sự hiểu chúng một cách tường tận, những lời nói đôi khi hoàn toàn kỳ lạ mà cô còn chế giễu chúng.
Những lời răn của chúa Jésus.
Làm sao điều ấy lại có thể chứ?  Hai người sống cách nhau sáu thế kỷ, sáu thế kỷ và hàng ngàn kilomet, vào những thời kỳ mà hiếm khi người ta đi du lịch  xa, và còn trước khi người ta phát minh ra máy in rất lâu...
Bối rối trước khám phá của mình, cô chạy đi tìm cuốn Kinh thánh Luật dân sự của mình, và đọc lại ngay từ đầu cuốn Đạo Đức Kinh để truy tìm tất cả mọi sự giống nhau.
Dần dần cô phát hiện ra, cô ghi lại và theo từng bước, sự ngạc nhiên của cô biến thành niềm hứng thú khi cô đánh giá mức độ khám phá của mình.
Thi thoảng, những lời của chúa Jésus giống như sự hưởng ứng cho lời của Lão Tử, như thể ngài trả lời nhà hiền triết:
Lão Tử: Tâm hồn ta là tâm hồn của kẻ có trí tuệ đơn giản.
Jésus: Phước thay những kẻ nghèo nàn về trí tuệ.
Ở những đoạn khác, các câu nói của hai người hoàn toàn như nhau:
Lão Tử: Khi thánh nhân đã cho đi tất cả, họ lại còn có nhiều hơn nữa.
Jésus: Hãy cho đi, các người sẽ nhận về nhiều hơn thế cả trăm lần.
Ngay cả những lời nói khó hiểu nhất, những điều khó chấp nhận nhất, thì cũng rất gần gũi với nhau:
Lão Tử: Lấy về mình những nhơ bẩn của vương quốc [...] đó chính là vua của tất cả.
Jésus: Phước thay nếu người ta phỉ nhổ dè bỉu con.
Đôi khi từ ngữ khác nhau, nhưng ý tưởng giống nhau:
Lão Tử: Thánh nhân không có ham muốn gì khác ngoài việc không ham muốn gì.
Jésus: Hãy chăm chú vào cầu nguyện, để không bị sa vào cám dỗ.
Ta tìm thấy cũng một lời kêu gọi hãy sống nhún nhường, tự hạ mình:
Lão Tử: Kẻ nào tự đặt ra chỗ sáng thì mãi mãi tăm tối. Kẻ nào thỏa mãn về mình không được đánh giá cao.
Jésus: Nếu ta tự tôn vinh bản thân mình, vinh quang của ta không đáng giá gì hết.
Lão tử: Tự đặt mình vào vị trí cuối cùng, thánh nhân ở vị trí hàng đầu [...] Kẻ  nào mạnh và lớn thì đứng trong vị trí thấp.
Jésus: Ai đó đứng lên thì sẽ bị hạ thấp xuống.
Cả hai người đều lấy làm tiếc cho khó khăn khi đưa vào vận hành những ý tưởng của mình:
Lão Tử: Những lời dạy của ta đều rất dễ hiểu, rất dễ làm theo, nhưng con người không thể hiểu chúng và không thể làm theo chúng.
Jésus: Tại sao các người cứ gọi ta là “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” nhưng lại  không thực hiện những gì ta nói?
Cả hai người đều cảnh báo về nguy cơ bị vật chất ám ảnh...
Lão Tử: Không có tai ương nào tồi tệ hơn ham muốn được sở hữu.
Jésus: Thật là khó cho những kẻ giàu có bước vào Vương quốc của Thiên chúa!
…với thi thoảng những câu ẩn dụ rất cùng họ hàng, những từ rất gần gụi với nhau:
Lão Tử: Một căn phòng đầy vàng bạc và đồ trang sức không thể giữ được. Tự cao tự hào bởi vì ta tràn đầy sự giàu có và danh dự, luôn thu hút về mình điều bất hạnh. Khi việc hữu ích được hoàn thành và khi danh vọng xuất hiện thì nên rút lui: Đó là Đạo Trời.
Jésus: Đừng ky cóp gom góp làm giàu trên trần gian, những con sâu và gỉ sét sẽ phá hủy chúng, bọn trộm cắp sẽ đột nhập và lấy đi, mà hãy gom góp những vật báu trên trời, nơi sẽ chẳng có sâu lẫn gỉ sét phá hủy, và là nơi mà bọn trộm cắp không đột nhập và lấy đi. Bởi ở đó sẽ là vật báu của các con, cũng tại đó sẽ là tâm hồn các con.
Cũng cùng một lời khuyến khích nên tìm lại một tâm hồn con trẻ:
Lão Tử: Kẻ nào chứa đựng trong mình sự vĩ đại của Đức hạnh thì giống như một đứa trẻ sơ sinh mà những loài thú độc không cắn, những loài thú dữ không ăn thịt, những loài chim săn mồi không cắp đi.
Jésus: Người nào tự biến mình khiêm nhường như một đứa trẻ nhỏ thì sẽ vĩ đại nhất trong Vương quốc các vị thần.
Họ thậm chí còn chia sẻ cùng một nhận định về cái chết:
Lão Tử: Kẻ nào chết mà không ngừng tồn tại thì đã trở thành bất tử.
Jésus: Nếu hạt lúa mạch không rơi xuống đất và không chết, nó sẽ cô độc: nhưng nếu nó chết, thì nó sẽ đem lại rất nhiều hạt mạch khác [...] Kẻ nào tìm cách cứu sống cuộc sống của mình thì hắn sẽ mất nó, và người sẽ mất đi cuộc sống của mình thì sẽ tìm lại được nó.
Tối hôm đó, Alice đi nằm mà trí tò mò bị kích thích tột độ.
Hoặc chúa Jésus đã trích rút những ý tưởng của Lão Tử, hoặc những lời răn dạy của họ, vốn đều rất rối rắm đối với cô, chứa đựng một sự thật căn bản hết sức, đến nỗi mà sự thực ấy đã trở thành phổ quát toàn cầu...
Và quả thực như vậy, cô sẵn sàng quyết tâm giải mã điều ấy. ---
--- Tôi sẽ ngộp thở… Nếu tôi chất lên mình tất cả những thứ ấy, người ta thậm chí không thể nhìn thấy tôi được.
Buổi tối, một ly rượu mận trên tay, vỏ chai đã gần rỗng ở bên cạnh, áp lực đã giảm, bà suy ngẫm về ý nghĩa của những cụm từ đã thoát ra từ miệng mình trong thời khắc nóng giận ấy.
Của cải khiến ta xa rời chính bản thân mình.
Ta càng trau chuốt hình ảnh mình thì ta càng bóp ngạt chính con người mình. ---
--- Cô cứ đi nhơn nhởn như thế qua các phòng, các tầng trong cửa hàng, như thể cô đang bay trong không gian và từ trạng thái tồn tại ấy, cô cảm thấy đang dần dần ló ra một cảm giác tự do, một sự tự do nhẹ nhàng và êm ái, một cảm giác miên man tỏa ra từ đáy ruột gan cô, giải thoát cô hoàn toàn khỏi áp lực thường nhật của vẻ bề ngoài. Cô buông thả mình để nhấm nháp cảm giác lạ lùng và mới mẻ này, thưởng thức nó, và bất ngờ cô cảm thấy mình đang sống, sống một cách thực sự. ---
--- Yêu thương, đó đã là tự yêu thương chính bản thân mình rồi. Yêu thương bản thân đem đến một sức mạnh để không bị tổn thương trước những châm chọc mà bản ngã của những người khác phóng ra, và để không cho bản ngã của chính ta khởi động đáp trả lại chúng. Yêu thương, đó là yêu thương người khác trong lúc phân biệt được bản chất con người nấp sau một bản ngã, đôi khi gây khó chịu, và khi ấy ta sẽ thấy bản ngã đó tự tan đi. Yêu thương, đó là tìm thấy sức mạnh để yêu thương cả kẻ thù của mình, và biến họ thành đồng minh. Yêu thương, đó là yêu cuộc sống dẫu có những muộn phiền và khó khăn, và khám phá rằng chúng chỉ là những công cụ cho sự buông bỏ của chúng ta, của sự trưởng thành và tỉnh  thức của chúng ta mà thôi. Tình yêu là chìa khóa cho tất cả. Là bí mật của thế giới. ---

Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

Liên Hệ