Nam Cao - Song Mon (Tai Ban 2022)

Nam Cao - Song Mon (Tai Ban 2022)

Nam Cao - Sống Mòn (Tái Bản 2022)

Nam Cao có bút danh là Thúy Rư, Xuân Du, Nguyệt, Nhiêu Khê...

Tên khai sinh: Trần Hữu Tri, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1917. Quê quán: làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam).

Năm 1951, ông tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở khu III. Nhà văn bị địch phục kích và hy sinh tại Hoàng Đan (Ninh Bình) ngày 30 tháng 11 năm 1951.

Khi còn nhỏ Nam Cao học ở làng và thành phố Nam Định. Từ 1936, bắt đầu viết văn in trên các báo: Tiểu thuyết thứ bảy, Ích hữu... Năm 1938, dạy học tư ở Hà Nội và viết báo. Năm 1941, ông dạy học tư ở Thái Bình. Năm 1942, ông trở về quê, tiếp tục viết văn. Năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa Cứu quốc. Cách mạng Tháng Tám (1945), ông tham gia giành chính quyền ở phủ Lý Nhân, và được cử làm Chủ tịch xã. Năm 1946, ra Hà Nội, hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc và là Thư ký tòa soạn tạp chí Tiên phong của Hội. Cùng năm đó, ông tham gia đoàn quân Nam tiến với tư cách phóng viên, hoạt động ở Nam Bộ. Sau đó lại trở về nhận công tác ở Ty Văn hóa Hà Nam. Mùa thu 1947, Nam Cao lên Việt Bắc, làm phóng viên báo Cứu quốc, cùng phụ trách báo Cứu quốc và là Thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1950, ông nhận công tác ở tạp chí Văn nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là Ủy viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương. Năm 1951, ông tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở khu III. Nhà văn bị địch phục kích và hy sinh tại Hoàng Đan (Ninh Bình) cuối tháng 11 năm 1951.

“Cuối năm 1944, Nam Cao viết xong Sống mòn. Tập tiểu thuyết ấy quăng đi, ném lại, không lọt qua được lưới kiểm duyệt để xuất bản, tuy rằng soi từng chữ không có chỗ nào bắt bẻ được. Sống mòn tả cuộc sống thiểu não, quẩn quanh, nhỏ nhen của mấy người trí thức tiểu tư sản nghèo, một cuộc sống mù xám cứ "mốc lên, rỉ đi, mòn ra, mục ra", không có lối thoát. Rộng hơn là vận mệnh mấy con người ấy, ta thấy đặt ra một cách ám ảnh vấn đề vận mệnh chung của cả một xã hội chua xót, đau đớn, buồn thảm, tủi nhục, trong đó, đời sống không còn ý nghĩa, quay về phía nào cũng thấy dựng lên những bức tường bế tắc.”

Tap Truyen Ngan Doi Mat - Nam Cao (Tai Ban 2025)

Tap Truyen Ngan Doi Mat - Nam Cao (Tai Ban 2025)

Tập Truyện Ngắn Đôi Mắt - Nam Cao

Nam Cao có bút danh là Thúy Rư, Xuân Du, Nguyệt, Nhiêu Khê,...Tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh năm 1917 tại làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Là một Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.Năm 1951, ông tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở khu III.

Nam Cao bị địch phục kích và hy sinh tại Hoàng Đan (Ninh Bình) vào năm 1951.

Tập truyện ngắn "Đôi mắt" gồm 21 tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn sáng tác từ 1941 - 1950 của Nam Cao, bao gồm: Đui mù, Nửa đêm, Quái dị, Cười, Nước mắt, Mua danh, Ở hiền, Rửa hờn, Rình trộm, Lang rận, Trẻ con không được ăn thịt chó, Sao lại thế này?, Điếu văn, Một chuyện xú-vơ-nia, Dì Hảo, Nỗi truân chuyên của khách má hồng, Từ ngày mẹ chết, Mò sâm banh, Chuyện buồn giữa đêm vui, Những bàn tay đẹp ấy, Đôi mắt.

Chỉ với 15 năm cầm bút, Nam Cao đã để lại một văn nghiệp đồ sộ với 2 tiểu thuyết, 50 truyện ngắn, bút ký…, trong đó có những nhân vật như lão Hạc, Bá Kiến, Thị Nở, Chí Phèo, Hộ, Độ, Hoàng … là những hình tượng không thể phai mờ trong tâm trí người đọc nhiều thế hệ.

Ông đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học, Nghệ thuật (đợt 1, 1996) cho các tác phẩm: Nhật ký ở rừng, Đôi mắt (truyện ngắn), Sống mòn (tiểu thuyết), Truyện ngắn chọn lọc (xuất bản năm 1964), Chí Phèo (truyện ngắn), Nửa đêm (truyện ngắn).

danh tác văn học việt nam - sống mòn (tái bản 2025)

danh tác văn học việt nam - sống mòn (tái bản 2025)

Danh Tác Văn Học Việt Nam - Sống Mòn (Tái Bản 2025)

Nam Cao có bút danh là Thúy Rư, Xuân Du, Nguyệt, Nhiêu Khê...

Tên khai sinh: Trần Hữu Tri, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1917. Quê quán: làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam).

Sống mòn hoàn thành vào năm 1944, xuất bản ban đầu với tên gọi ""Chết mòn"" năm 1956. Trong tác phẩm, Nam Cao đã miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Họ là những người có ý thức rất cao về nhân phẩm và danh dự, có khát vọng - hoài bão văn chương lớn lao nhưng lại bị gánh nặng cơm áo gạo tiền bóp nghẹt sự sống. Rộng hơn là vận mệnh mấy con người ấy, ta thấy đặt ra một cách ám ảnh vấn đề vận mệnh chung của cả một xã hội chua xót, đau đớn, buồn thảm, tủi nhục, trong đó, đời sống không còn ý nghĩa, quay về phía nào cũng thấy dựng lên những bức tường bế tắc.""

Cuốn tiểu thuyết chất chứa những suy nghĩ, trăn trở, ưu tư của Nam Cao về cách sống, về lối viết và nhiệm vụ của những người cầm bút. Không có những xung đột gay gắt, mâu thuẫn cao trào, chỉ đơn giản là những giằng xé đấu tranh nội tâm của mỗi phận người. Chỉ với giọng văn điềm đạm, cốt truyện đơn giản, thế nhưng, Sống mòn đã hội tụ đầy đủ tất cả sự điêu luyện, tinh tế của một ngòi bút truyện ngắn bậc thầy.

danh tác việt nam - chí phèo (tái bản 2025)

danh tác việt nam - chí phèo (tái bản 2025)

Danh Tác Việt Nam - Chí Phèo

Khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính. Chí Phèo là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.

Chủ đề chính của câu chuyện này là phê phán xã hội phong kiến ngày xưa. Trong truyện, có những sự xuất hiện của con người và nhân vật. Hơn nữa, nhà văn Nam Cao đã đề cao và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp, cao quý của Chí Phèo – Thị Nở. Câu chuyện này đã nói lên sự xung đột vô cùng quyết liệt của các tầng lớp khác nhau trong xã hội phong kiến.

Tác Giả Nam Cao:

Nam Cao (1915/1917 – 28 tháng 11 năm 1951) là một nhà văn và cũng là một chiến sĩ, liệt sĩ người Việt Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn (trước Cách mạng), một nhà báo kháng chiến (sau Cách mạng), một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20. Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.

Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri (có nguồn ghi là Trần Hữu Trí), sinh năm 1915, nhưng theo giấy khai sinh ghi thì là ngày 29 tháng 10 năm 1917. Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao.

Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ, với bút danh Nam Cao do Nhà xuất bản Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo.

Phát xít Nhật thâm nhập Đông Dương, trường sở bị trưng dụng, ông rời Hà Nội, về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm. Ông in truyện dài nhiều kỳ Truyện Người Hàng Xóm trên tờ Trung Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết Mòn, sau đổi là Sống Mòn...

đời thừa

đời thừa

Đời Thừa

Khám Phá Bản Chất Con Người Qua "Đời Thừa" của Nam Cao

Đời Thừa– tác phẩm nổi bật của Nam Cao, mang đến một cái nhìn sâu sắc về cuộc sống và những xung đột nội tâm của con người trong xã hội. Với bút pháp tinh tế và quan sát sắc sảo, Nam Cao mở ra một thế giới đầy suy tư và cảm xúc.

Nội dung hấp dẫn: "Đời Thừa" không chỉ là câu chuyện về cuộc sống của một trí thức, mà còn là một nghiên cứu tinh tế về sự đối lập giữa lý tưởng và thực tại. Tác phẩm phản ánh sự đấu tranh nội tâm, sự thất vọng, và cảm giác vô nghĩa của nhân vật khi đứng trước những lựa chọn khó khăn trong cuộc đời. Nam Cao đã khéo léo xây dựng những tình huống và nhân vật để khám phá sâu sắc các chủ đề về sự tồn tại và giá trị cuộc sống.

Vì sao bạn không thể bỏ qua:

- Khám Phá Tâm Lý: Đắm mình trong thế giới nội tâm của nhân vật và cảm nhận những nỗi đau, cảm xúc và suy tư sâu sắc của họ.

- Phê Phán Xã Hội: Nhận diện, hiểu rõ hơn về các vấn đề xã hội, sự phân hóa và mâu thuẫn thông qua cái nhìn sâu sắc của tác giả.

- Tác Phẩm Đặc Sắc: Tìm hiểu lý do tại sao "Đời Thừa" được coi là một tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao, góp phần quan trọng vào nền văn học Việt Nam.

Hãy đặt ngay Đời Thừađể trải nghiệm một tác phẩm văn học kinh điển và khám phá những chiều sâu của tâm lý con người. Đặt hàng ngay hôm nay để không bỏ lỡ cơ hội hiểu thêm về những câu hỏi sâu sắc về cuộc sống và sự tồn tại!

nam cao - sống mòn (tái bản) (bìa mềm)

nam cao - sống mòn (tái bản) (bìa mềm)

Nam Cao - Sống Mòn (Tái Bản) (Bìa Mềm)

Nam Cao có bút danh là Thúy Rư, Xuân Du, Nguyệt, Nhiêu Khê...

Tên khai sinh: Trần Hữu Tri, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1917. Quê quán: làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam).

Sống mòn hoàn thành vào năm 1944, xuất bản ban đầu với tên gọi ""Chết mòn"" năm 1956. Trong tác phẩm, Nam Cao đã miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Họ là những người có ý thức rất cao về nhân phẩm và danh dự, có khát vọng - hoài bão văn chương lớn lao nhưng lại bị gánh nặng cơm áo gạo tiền bóp nghẹt sự sống. Rộng hơn là vận mệnh mấy con người ấy, ta thấy đặt ra một cách ám ảnh vấn đề vận mệnh chung của cả một xã hội chua xót, đau đớn, buồn thảm, tủi nhục, trong đó, đời sống không còn ý nghĩa, quay về phía nào cũng thấy dựng lên những bức tường bế tắc.""

Cuốn tiểu thuyết chất chứa những suy nghĩ, trăn trở, ưu tư của Nam Cao về cách sống, về lối viết và nhiệm vụ của những người cầm bút. Không có những xung đột gay gắt, mâu thuẫn cao trào, chỉ đơn giản là những giằng xé đấu tranh nội tâm của mỗi phận người. Chỉ với giọng văn điềm đạm, cốt truyện đơn giản, thế nhưng, Sống mòn đã hội tụ đầy đủ tất cả sự điêu luyện, tinh tế của một ngòi bút truyện ngắn bậc thầy.

nam cao - sống mòn (tái bản) (bìa cứng)

nam cao - sống mòn (tái bản) (bìa cứng)

Nam Cao - Sống Mòn (Tái Bản) (Bìa Cứng)

Nam Cao có bút danh là Thúy Rư, Xuân Du, Nguyệt, Nhiêu Khê...

Tên khai sinh: Trần Hữu Tri, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1917. Quê quán: làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam).

Sống mòn hoàn thành vào năm 1944, xuất bản ban đầu với tên gọi ""Chết mòn"" năm 1956. Trong tác phẩm, Nam Cao đã miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Họ là những người có ý thức rất cao về nhân phẩm và danh dự, có khát vọng - hoài bão văn chương lớn lao nhưng lại bị gánh nặng cơm áo gạo tiền bóp nghẹt sự sống. Rộng hơn là vận mệnh mấy con người ấy, ta thấy đặt ra một cách ám ảnh vấn đề vận mệnh chung của cả một xã hội chua xót, đau đớn, buồn thảm, tủi nhục, trong đó, đời sống không còn ý nghĩa, quay về phía nào cũng thấy dựng lên những bức tường bế tắc.""

Cuốn tiểu thuyết chất chứa những suy nghĩ, trăn trở, ưu tư của Nam Cao về cách sống, về lối viết và nhiệm vụ của những người cầm bút. Không có những xung đột gay gắt, mâu thuẫn cao trào, chỉ đơn giản là những giằng xé đấu tranh nội tâm của mỗi phận người. Chỉ với giọng văn điềm đạm, cốt truyện đơn giản, thế nhưng, Sống mòn đã hội tụ đầy đủ tất cả sự điêu luyện, tinh tế của một ngòi bút truyện ngắn bậc thầy.

con mèo mắt ngọc - tập truyện viết cho thiếu nhi

con mèo mắt ngọc - tập truyện viết cho thiếu nhi

Con Mèo Mắt Ngọc - Tập Truyện Viết Cho Thiếu Nhi

Những sáng tác viết cho thiếu nhi trước 1945 của Nam Cao, có thể sẽ khiến bạn đọc ngày nay bất ngờ và hiểu hơn về sự nghiệp của một nhà văn tài năng. Không chỉ am tường xã hội đương thời, thấu tỏ những bất công và thân phận con người, khi viết cho thiếu nhi, tác phẩm của Nam Cao thật ý nhị, đa sắc và hàm ẩn triết lí nhân sinh.

Hãy đọc cổ tích “hiện đại” Con mèo mắt ngọc, gặp Ba người bạn, qua Người thợ rèn, tham dự cuộc phiêu lưu trên Đảo Hang Cọp, trải nghiệm kinh dị cùng Người đàn bà nuôi rắn rồi Thám hiểm châu Phi xa tít...

“... Ở di sản sáng tác của Nam Cao, bên cạnh số truyện ngắn, tiểu thuyết đã và đang được lưu hành, vẫn còn một số lượng đáng kể những tác phẩm có nguy cơ mất hẳn, dù đã được công bố trên sách báo ngay lúc tác giả còn sống. Cuốn sách này chỉ mới tìm lại thêm được một số sáng tác của Nam Cao, chủ yếu là những truyện ông đã viết và in trong các loại sách phổ thông dành cho tuổi học trò của một số nhà sách ở Hà Nội những năm 1940-1945.” - LẠI NGUYÊN ÂN

---

Nhà văn NAM CAO (1915-1951), tên thật là Trần Hữu Tri, bút danh khác: Thúy Rư, Xuân Du, Nguyệt.

Quê quán: Làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Bút danh Nam Cao được ghép hai chữ đầu của tên tổng và huyện quê hương ông.

Nam Cao là nhà văn hiện thực có tên tuổi, một nhà báo, chiến sĩ, liệt sĩ cách mạng, một trong những tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thế kỷ 20, có những đóng góp quan trọng trong việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết. Ông viết nhiều và có những tác phẩm đặc sắc: Chí Phèo, Dì Hảo, Lão Hạc, Lang Rận, Tư cách mõ, Mò sâm banh, Đôi mắt, Sống mòn...

Với những cống hiến cho văn học nghệ thuật nước nhà, năm 1996, Nam Cao được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học và Nghệ thuật.

danh tác việt nam - đời thừa

danh tác việt nam - đời thừa

Danh Tác Việt Nam - Đời Thừa

Nhà văn Nam Cao (1915-1951) là một nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Với quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh luôn là ngọn đèn soi sáng trong những sáng tác văn chương của ông, những tác phẩm của Nam Cao đều tập trung vào đối tượng người nông dân nghèo, tầng lớp trí thức nghèo và tái hiện chân thực xã hội lúc bấy giờ; đồng thời đi sâu vào nội tâm nhân vật, từ đó làm nổi bật lên hai giá trị song hành là hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Đời thừa là tập truyện ngắn gồm 13 truyện ngắn Đời thừa, Chuyện tình, Đòn chồng, Giăng sáng, Ở hiền, Trẻ con không biết đói, Một đám cưới, Bài học quét nhà, Đui mù, Đôi móng giò, Đón khách, Từ ngày mẹ chết, Thôi, đi về.

“Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn. Như thế mới thật là một tác phẩm hay, các anh có hiểu không? Tôi chưa thất vọng đâu! Rồi các anh xem... Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu!”

(Trích Đời thừa)

đôi lứa xứng đôi - nửa đêm - cười - ấn bản giới hạn - bìa da microfiber

đôi lứa xứng đôi - nửa đêm - cười - ấn bản giới hạn - bìa da microfiber

Đôi Lứa Xứng Đôi - Nửa Đêm - Cười - Ấn Bản Giới Hạn - Bìa Da Microfiber

Đôi lứa xứng đôi - Nửa đêm - Cười nằm trong tủ sách Văn chương & Mỹ thuật của Đông A. Ngoài ấn bản phổ thông, tác phẩm có phiên bản giới hạn với các thông tin đáng chú ý sau:

Trong ấn phẩm này, Đông A gửi đến bạn đọc các truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao từ ba tập truyện: Đôi lứa xứng đôi (Nhà xuất bản Đời Mới, 1941), Nửa đêm (Nhà xuất bản Cộng Lực, 1943), Cười (Nhà xuất bản Minh Đức, 1946); trong đó Đôi lứa xứng đôi là tập truyện ngắn đầu tay của Nam Cao và được xem như một hiện tượng văn học độc đáo lúc vừa ra mắt. Qua các truyện ngắn trong ba tập sách này, ngoài những điều đã biết về văn nghiệp Nam Cao, bạn đọc sẽ phần nào hình dung được nỗi giằng xé giữa việc viết để mưu sinh và viết để phụng sự lý tưởng nghệ thuật mà ông nhắc đến trong truyện ngắn nổi tiếng Đời thừa, cũng như hành trình sáng tác đầy gian truân và vô cùng nghiêm túc của nhà văn.

Ấn phẩm được bổ sung bộ minh họa mới của họa sĩ Đặng Xuân Hòa – một trong những tên tuổi nổi bật nhất của hội họa Việt Nam giai đoạn sau đổi mới. Họa sĩ Đặng Xuân Hòa đã tóm bắt được những tình tiết, chi tiết, cảm xúc “đắt giá” và thể hiện trong tranh bằng ngôn ngữ riêng. Minh họa của họa sĩ vừa thể hiện được cái tình, cái ý, những trăn trở suy tư của Nam Cao, lại vừa như cho người xem thấy rõ nỗi nhọc nhằn, sự nghiêm túc trong lao động sáng tạo của người nghệ sĩ. Văn chương và mỹ thuật gắn kết, đan bện vào nhau tạo nên một tổng thể hài hòa, thú vị.

đôi lứa xứng đôi - nửa đêm - cười (bìa cứng)

đôi lứa xứng đôi - nửa đêm - cười (bìa cứng)

Trong ấn phẩm này, Đông A gửi đến bạn đọc các truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao từ ba tập truyện: Đôi lứa xứng đôi (Nhà xuất bản Đời Mới, 1941), Nửa đêm (Nhà xuất bản Cộng Lực, 1943), Cười (Nhà xuất bản Minh Đức, 1946); trong đó Đôi lứa xứng đôi là tập truyện ngắn đầu tay của Nam Cao và được xem như một hiện tượng văn học độc đáo lúc vừa ra mắt. Qua các truyện ngắn trong ba tập sách này, ngoài những điều đã biết về văn nghiệp Nam Cao, bạn đọc sẽ phần nào hình dung được nỗi giằng xé giữa việc viết để mưu sinh và viết để phụng sự lý tưởng nghệ thuật mà ông nhắc đến trong truyện ngắn nổi tiếng Đời thừa, cũng như hành trình sáng tác đầy gian truân và vô cùng nghiêm túc của nhà văn.

Ấn phẩm được bổ sung bộ minh họa mới của họa sĩ Đặng Xuân Hòa – một trong những tên tuổi nổi bật nhất của hội họa Việt Nam giai đoạn sau đổi mới. Họa sĩ Đặng Xuân Hòa đã tóm bắt được những tình tiết, chi tiết, cảm xúc “đắt giá” và thể hiện trong tranh bằng ngôn ngữ riêng. Minh họa của họa sĩ vừa thể hiện được cái tình, cái ý, những trăn trở suy tư của Nam Cao, lại vừa như cho người xem thấy rõ nỗi nhọc nhằn, sự nghiêm túc trong lao động sáng tạo của người nghệ sĩ. Văn chương và mỹ thuật gắn kết, đan bện vào nhau tạo nên một tổng thể hài hòa, thú vị.

Đôi lứa xứng đôi - Nửa đêm - Cười nằm trong tủ sách Văn chương & Mỹ thuật của Đông A.

Giới thiệu tác giả:

Nam Cao (1915 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri. Quê ông ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Xang (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Sau khi thi đỗ Thành Chung, ông làm việc tại một trường tư thục ở Hà Nội, sống chật vật bằng nghề dạy học và viết văn. Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, là một trong những thành viên đầu tiên của tổ chức. Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc và làm việc cho một số tòa soạn báo. Năm 1951, trên đường đi công tác, Nam Cao cùng các đồng đội bị phục kích và hy sinh tại huyện Gia Viễn, Ninh Bình.

Là một trong những nhà văn hiện thực lớn nhất của Việt Nam thế kỷ XX, ngòi bút Nam Cao nổi bật với những tác phẩm viết về người nông dân và trí thức nghèo như Chí Phèo, Lão Hạc, Đời thừa, Đôi mắt, Sống mòn, Giăng sáng… Ẩn sau những câu văn chua chát, bức bối, mô tả bộ mặt xã hội xấu xí và những kiếp người nhục nhằn không lối thoát, độc giả phần nào cảm nhận được nỗi trăn trở và lòng thương cảm, xót xa vô hạn của tác giả dành cho con người.

Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

Một số nhận xét:

“Tôi quan niệm cuộc đời giản dị lắm. Đời không có nhiêu khê như người ta vẫn viết trong tiểu thuyết trữ tình. Đói thì ăn, khát thì uống. Tôi thấy thế nào cứ viết in như thế, không thêm bớt. Thế cũng đủ rồi, lọ là phải bầy đặt thêm ra làm gì.” - Nam Cao (nói với nhà văn Vũ Bằng)

“Mỗi sáng tác của anh đều là tiếng nói một thái độ của ngòi bút. Không ngủ gật hoặc ừ hữ che màn với cuộc sống bấy giờ, mà anh đã quăng vấn đề ra cho bạn đọc suy nghĩ. Những cái bất công bạo ngược mà anh cảm, anh đã viết nó lên.” - Nhà văn Tô Hoài

“Đặc điểm của Nam Cao theo tôi là ở sự giản dị chân phương. Cũng như người anh, văn anh không cầu kỳ, nhưng ‘đánh phát nào trúng phát ấy’, đi sâu vào tâm hồn người ta...” - Nhà văn Vũ Bằng

“…Ở Nam Cao - đời sống và đời văn là gắn bó với nhau như hai mặt một tờ giấy mỏng, soi bên này mà thấy cả bên kia. Soi vào văn ông để thấy đời; và soi vào đời để nhận thêm các giá trị từ những trang văn im lặng.” - Giáo sư Phong Lê

đời thừa (tái bản 2022)

đời thừa (tái bản 2022)

Đời thừa - tuyển chọn những truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao xoay quanh cuộc sống người trí thức, với những tuyên ngôn để đời của nhà văn Nam Cao về văn chương, nghệ thuật. Ớ đề tài người trí thức tiểu tư sản, đáng chú ý là các truyện ngắn:Giăng sáng, Truyện tình, Đời thừa, Mua danh... Nhà văn Nam Cao đặc biệt đi sâu vào những bi kịch tâm hồn của họ, qua đó, đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn. Những tác phẩm đó đã phê phán sâu sắc xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời, đã thể hiện sự tự đấu tranh bên trong của người trí thức tiếu tư sản trung thực cố vươn tới một cuộc sống đẹp đẽ, thực sự có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người. Qua sáng tác của mình, Nam Cao thể hiện quan điểm nghệ thuật rằng, một tác phẩm văn học phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. “Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công bằng” và "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có". Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm, có nhân cách xứng với nghề; và cho rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những là bất lương mà còn là đê tiện."

nam cao - lão hạc (tái bản)

nam cao - lão hạc (tái bản)

Nam Cao (1915-1951) tên thật là Trần Hữu Tri (theo giấy khai sinh 1917-1951), sinh tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phú Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh Nam Cao.

Lão Hạc là một truyện ngắn của nhà văn Nam Cao được viết năm 1943. Tác phẩm được đánh giá là một trong những truyện ngắn khá tiêu biểu của dòng văn học hiện thực, nội dung truyện đã phần nào phản ánh được hiện trạng xã hội Việt Nam trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám.

Lão Hạc, một người nông dân chất phác, hiền lành. Lão góa vợ và có một người con trai nhưng vì quá nghèo nên không thể lấy vợ cho người con trai của mình. Người con trai lão vì thế đã rời bỏ quê hương để đến đồn điền cao su làm ăn kiếm tiền. Lão luôn trăn trở, suy nghĩ về tương lai của đứa con. Lão sống bằng nghề làm vườn, mảnh vườn mà vợ lão đã mất bao công sức để mua về và để lại cho con trai lão. So với những người khác lúc đó, gia cảnh của lão khá đầy đủ, tuy nhiên do ốm yếu hơn hai tháng và cũng vì trận bão mà lão không có việc gì để làm. Lão đã rất dằn vặt bản thân mình khi mang một "tội lỗi" là đã nỡ tâm "lừa một con chó". Lão đã khóc rất nhiều với ông giáo (người hàng xóm thân thiết của lão).

chí phèo

chí phèo

Chí Phèo

Nam Cao có bút danh là Thúy Rư, Xuân Du, Nguyệt, Nhiêu Khê...

Tên khai sinh: Trần Hữu Tri, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1917. Quê quán: làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tác phẩm đã xuất bản: Đôi lứa xứng đôi (truyện ngắn, 1941); Nửa đêm (truyện ngắn, 1944); Cười (truyện ngắn, 1946), Ở rừng (nhật ký, 1948); Truyện biên giới (1951); Đôi mắt(truyện ngắn, 1954); Sống mòn (truyện dài, 1956); Chí Phèo (1957); Truyện ngắn Nam Cao (truyện ngắn, 1960); Một đám cưới (truyện ngắn, 1963); Tác phẩm Nam Cao (tuyển, 1964); Nam Cao tác phẩm (tập I: 1976, tập II: 1977); Tuyển tập Nam Cao(tập I: 1987, tập II: 1993); Những cánh hoa tàn (truyện ngắn, 1988); Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn (1995); Nam Cao truyện ngắn (chọn lọc, 1996); Nam Cao toàn tập (1999).

Ngoài ra ông còn làm thơ, viết kịch (Đóng góp, 1951) và biên soạn sách địa lý cùng với Văn Tân (Địa dư các nước châu Âu, 1948); Địa dư các nước châu Á, châu Phi, 1949; Địa dư Việt Nam, 1951.

“Chí Phèo” – tập truyện ngắn tái hiện bức tranh chân thực nông thôn Việt Nam trước 1945, nghèo đói, xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê thảm, người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nam Cao không hề bôi nhọ người nông dân, trái lại nhà văn đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất cà nhân hình, nhân tính của người nông dân, đồng thời kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó trước 1945.

Những sáng tác của Nam Cao ngoài giá trị hiện thực sâu sắc, các tác phẩm đi sâu vào nội tâm nhân vật, để lại những cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

tuyển tập truyện ngắn - chí phèo (tái bản 2018)

tuyển tập truyện ngắn - chí phèo (tái bản 2018)

Chí Phèo - Tái Bản 2014 "... Cả làng Vũ Đại nhao lên. Họ bàn tán rất nhiều về vụ án không ngờ ấy. Có kẻ mừng thầm. Không thiếu kẻ mừng ra mặt. Có người nói xa xôi: "Trời có mắt đấy, anh em ạ!". Người khác thì nói toạc: "Thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không ai tiếc! Rõ thật bọn chúng nó giết nhau, nào có phải cần đến tay người khác đâu". Mừng nhất là bọn kỳ hào trong làng. Họ tuôn đến để hỏi thăm, nhưng chính là để nhìn Lý Cường bằng những con mắt thỏa mãn và khiêu khích. Đội Tảo, không cần kín đáo, nói toang toang ngay ngoài chợ, trước mặt bao nhiêu người: "Thằng bố chết, thằng con lớp này không khỏi bị người ta cho ăn bùn". Ai chả hiểu "người ta" đó chính là ông. Bọn đàn em thì bàn nhỏ: "Thằng mọt già ấy chết, anh em mình nên ăn mừng". Những người biết điều thì hay ngờ vực; họ chép miệng nói: "Tre già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác, chúng mình cũng chẳng lợi tí gì đâu..." Bà cô Thị Nở chỉ vào tận mặt cháu mà đay nghiến: - Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo. Thị cười và nói lảng: - Hôm qua làm biên bản, Lý Cường nghe đâu tốn gần một trăm. Thiệt người lại tốn của. Nhưng thị lại nghĩ thầm: - Sao có lúc nó hiền như đất. Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị phải nhìn trộm bà cô, rồi nhìn nhanh xuống bụng.: - Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào? Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại..."

giăng sáng

giăng sáng

Giăng Sáng

'Tối nay lại có giăng. Nhưng Điền chỉ đem có hai cái ghế ra sân. Vợ Điền hôm nay luật quật suốt cả ngày. Con ở xin đi ăn giỗ một hôm. Thị lại phải dệt vải lấy tấm vải để mai đi bán về đưa lãi nợ. Dệt xong thị vội vàng đi đòi món tiền. Về đến nhà, con bé khóc hết hơi. Con lớn thì lem luốc, mũi dãi nguếch ngoác bôi đầy mặt. Nhà cửa còn bề bộn. Con ở vẫn chưa về. Mình thị biết xoay sở làm sao kịp? Thị thấy lòng sôi lên sùng sục, thị giậm chân bành bạch kêu trời. Thị đánh con lớn, chửi con nhỏ, quăng cái chổi, đá cái thúng, và càu nhàu trống không. Rồi thị bế con đi nằm sớm. Đứa con lớn thút thít khóc chán cũng lăn ra ngủ.

Mình Điền ngồi ngoài sân. Điền cố thản nhiên. Nhưng da mặt cứ rồm rộm; nó có vẻ dày lên và tê tê. Điền thấy gần như tủi cực. Vợ Điền có lẽ rất yêu Điền. Nhưng thị chỉ biết rằng người ta cần ăn cơm, mặc áo và uống thuốc khi đau ốm. Thị chỉ cố lo cho chồng ba thức ấy. Thị nhịn ăn để chồng ăn.õ Thị nhịn mặc cho chồng mặc. Thị bán đến cả yếm, áo để lo thuốc thang cho chồng. Thị tưởng thế là chồng sung sướng lắm. Nhưng không phải, Điền đã quen với những tình cảm nồng nàn và những lời nói vuốt ve. Nét mặt cau có, ngôn ngữ cục cằn, và nhất là cái lối yêu quá đơn sơ - có thể nói thô sơ - của vợ Điền làm cho Điền khổ.'

Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

Liên Hệ