nhảy nhảy nhảy (tái bản 2021)

nhảy nhảy nhảy (tái bản 2021)

Một ám ảnh khôn nguôi về một chốn vừa xác định vừa bí ẩn - Khách sạn Cá Heo, cùng tiếng khóc âm u não nuột của một người đàn bà trong bóng tối của giấc mơ: chừng đó là đủ để lôi chàng trai xưng tôi - nhân vật chính của chúng ta - vào một cuộc phiêu lưu mới, nơi anh sẽ vừa chứng kiến vừa bị dính mắc vào một mê cung của những cái chết bất ngờ và những vận hành của một thứ mưu đồ có sẵn mà nhiều lúc hình như quá mạnh, không thể hiểu so với anh. Và trong cõi mê cung ấy anh gặp lại Người Cừu, gặp những con người anh chưa bao giờ nghĩ là sẽ gặp, và rồi sẽ cố hết sức tìm lại người đàn bà từng có lúc anh yêu, sẽ làm tất cả những gì trong sức mình để cứu nàng, để níu giữ nàng…

******

Nhận định

 

 “Nếu Raymond Chandler sống đủ lâu để có thể xem Blade Runner, ắt hẳn ông sẽ viết r một cuốn nào đấy tương tự như Nhảy Nhảy Nhảy.”“ - Observer

 

“Làm thế nào Murakami có thể duy trì được chất thơ trong khi viết về đời sống hiện đại và cảm xúc hiện đại? Tôi hầu như rủn gối vì ngưỡng mộ.” - Independent on Sunday

 

“Murakami là tác gia độc nhất vô nhị, tuy nhiên ở nhiều phương diện ông cũng là người kế tục Kafka bởi hình như ông có cái trí tuệ hầu thấu hiểu thực chất của Kafka: một tác gia đầy hài hước.” - Sunday Herald

 

“Cần phải xếp Murakami vào hàng các tiểu thuyết gia lớn nhất còn sống hiện nay trên thế giới.” - Guardian

xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới (tái bản 2021)

xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới (tái bản 2021)

Sao vầng dương còn chói sáng?

Chim chóc vẫn ca vang?

Chúng không hay thế giới sắp lụi tàn?

“The End of the World”, nhạc và lời: Sylvia Dee/Arthur Kent

Một tác phẩm khoa học giả tưởng, truyện trinh thám và bản tuyên ngôn của chủ nghĩa hậu hiện đại kết hợp trong cuốn tiểu thuyết dung lượng đồ sộ. Murakami đã hợp nhất Đông - Tây, bi - hài, sự thờ ơ và lòng trắc ẩn, ngôn ngữ lóng thông tục và các tư tưởng triết học siêu hình trong câu chuyện đặc sắc về toán sư 35 tuổi li hôn trong hành trình đi xuống thế giới ngầm mang màu sắc Kafka dưới lòng Tokyo hiện đại. Kết quả là Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới với những tưởng tượng sáng tạo phóng túng và một trạng thái lắng đọng sâu xa của tâm thức, góp phần tạo nên thành công lớn làm gia tăng đáng kể lượng độc giả của Haruki Murakami trên toàn thế giới.

Tiểu thuyết Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới được trao Giải thưởng Văn học Tanizaki uy tín của Nhật Bản năm 1985.

Nhận định

“Một tiểu thuyết gia xuất sắc… ông nắm bắt được nỗi đau chung trong tâm hồn và trí óc của con người đương đại.” - Jay Mclnerney

“Tồn tại khái niệm kỳ bí mang tên Hiệu ứng Murakami: đọc sách của ông người ta trở nên trầm lặng, vì bắt buộc phải chìm đắm vào một trạng thái thiền.” - Frankfurter Allgemeine Zeitung

“Haruki Murakami thành công trong nỗ lực kết hợp Stephen King, Franz Kafka và Thomas Pynchon ở tác phẩm của mình. Ông là một trong những cây bút đương đại bậc thầy.” - Der Tagesspiegel

“Khi viết cuốn sách này, một hình mẫu quan trọng của tôi là huyền thoại về Orpheus xuống địa phủ tìm người vợ yêu đã khuất. Xưa kia con người từng quan niệm dưới bề mặt này còn một thực tại khác nữa. Giờ đây tôi vẫn tin như vậy, dĩ nhiên là hiểu theo nghĩa ẩn dụ. Có thể hình dung thế giới chúng ta đang sống là một ngôi nhà. Có tầng trệt, tầng lầu và tầng hầm. Tôi tin bên dưới tầng hầm vẫn còn tầng hầm nữa. Nếu thực sự muốn, chúng ta sẽ tìm được đường đi xuống. Cuốn tiểu thuyết này dẫn dụ ta theo hướng đó.” - Haruki Murakami, 2003

bộ giết chỉ huy đội kỵ sĩ - tập 1: ý tưởng xuất hiện

bộ giết chỉ huy đội kỵ sĩ - tập 1: ý tưởng xuất hiện

“Có thể một ngày nào đó tôi sẽ vẽ được chân dung của thứ không có. Như một họa sĩ đã vẽ được bức tranh Giết chỉ huy đội kỵ sĩ. Nhưng để làm được vậy, tôi cần có thời gian. Tôi phải làm bạn với thời gian.”

Rời khỏi người vợ đã đơn phương đòi ly hôn, “tôi” - chàng họa sĩ vẽ chân dung ba mươi sáu tuổi lang thang khắp nẻo đường rồi dừng chân tại một biệt thự nằm giữa khu rừng âm u trên đỉnh ngọn núi trông về phía biển, và sống tiếp tại đó trong nỗi cô đơn thăm thẳm. Không lâu sau, con cú đại bàng trên gác mái và tiếng chuông kỳ quái lúc đêm khuya đã khơi mào một chuỗi hiện tượng bí ẩn, dẫn dụ “tôi” bước vào chuyến phiêu lưu tâm linh huyền hoặc. Người đàn ông tóc bạc trắng xuất hiện từ bên kia thung lũng xanh biếc, ngôi miếu với căn hầm đá trong rừng, đĩa hát cũ, “Chỉ huy đội kỵ sĩ”… những chi tiết nửa thực nửa hư chậm rãi hiện hình trong bức tranh siêu thực u hoài, lạnh gáy của Murakami.

Tác giả

Haruki Murakami sinh ngày 12/1/1949 tại Kyoto, lớn lên ở thành phố Ashiya, tỉnh Hyogo nhưng phần lớn thời thanh xuân lại trải qua ở Tokyo. Murakami từng học về kịch tại đại học Waseda, Tokyo. Khi đang còn là sinh viên tại đại học Waseda, ông mở một quán nhạc Jazz có tên là Peter Cat và bắt đầu viết tiểu thuyết. Văn phong của ông chịu ảnh hưởng lớn từ văn học Mỹ, các tác phẩm của ông chủ yếu miêu tả cuộc sống và con người ở đô thị hiện đại.

Các tác phẩm khác của Haruki Murakami do Nhã Nam xuất bản:

Lắng nghe gió hát

Cuộc săn cừu hoang
Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới
Rừng Na Uy
Nhảy nhảy nhảy
Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời
Biên niên ký chim vặn dây cót
Ngầm
Người tình Sputnik
Kafka bên bờ biển
Tôi nói gì khi nói về chạy bộ
1Q84
Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương
Những người đàn ông không có đàn bà

bộ giết chỉ huy đội kỵ sĩ - tập 2: ẩn dụ dịch chuyển

bộ giết chỉ huy đội kỵ sĩ - tập 2: ẩn dụ dịch chuyển

“Các người sinh ra không phải để giết chóc. Nhưng đôi lúc, để cứu được thứ quan trọng, hoặc vì mục đích lớn lao, con người buộc phải làm điều không mong muốn.”

Bức tranh được cất giấu trên gác mái cùng những bức tranh do “Tôi” vẽ kết hợp với nhau như các mảnh ghép trong trò xếp hình và bắt đầu kể một câu chuyện. Bóng đen che khuất quá khứ của người họa sĩ già chủ nhân căn biệt thự trên núi đã dần sáng tỏ, nhưng tiếng chuông lúc đêm khuya vẫn không ngừng khắc khoải ngân lên…

“Tôi” phải vượt qua thử thách tàn khốc của Chỉ huy đội kỵ sĩ để cứu một cô bé mất tích và đóng lại vòng tròn của thế giới mở ra từ ngôi miếu cũ. Câu chuyện bí ẩn dần hạ màn, và ở điểm cuối cuộc hành trình, hy vọng bừng lên trong hình hài một ân sủng.

Tác giả

Haruki Murakami sinh ngày 12/1/1949 tại Kyoto, lớn lên ở thành phố Ashiya, tỉnh Hyogo nhưng phần lớn thời thanh xuân lại trải qua ở Tokyo. Murakami từng học về kịch tại đại học Waseda, Tokyo. Khi đang còn là sinh viên tại đại học Waseda, ông mở một quán nhạc Jazz có tên là Peter Cat và bắt đầu viết tiểu thuyết. Văn phong của ông chịu ảnh hưởng lớn từ văn học Mỹ, các tác phẩm của ông chủ yếu miêu tả cuộc sống và con người ở đô thị hiện đại.

Các tác phẩm khác của Haruki Murakami do Nhã Nam xuất bản:

Lắng nghe gió hát

Cuộc săn cừu hoang
Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới
Rừng Na Uy
Nhảy nhảy nhảy
Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời
Biên niên ký chim vặn dây cót
Ngầm
Người tình Sputnik
Kafka bên bờ biển
Tôi nói gì khi nói về chạy bộ
1Q84
Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương
Những người đàn ông không có đàn bà

biên niên ký chim vặn dây cót (tái bản 2020)

biên niên ký chim vặn dây cót (tái bản 2020)

Toru Okada, một luật sư vừa bỏ việc, đang có một cuộc sống bình thường, giản dị bên cạnh người vợ Kumiko thì đột nhiên con mèo của anh biến mất. Ngay sau đó, vợ anh bỏ đi, để lại một lời nhắn rằng anh đừng cố đi tìm cô. Toru cố gắng đi tìm vợ và con mèo, nhưng việc tìm kiếm đó liên tục bị gián đoạn bởi sự xuất hiện của những nhân vật kỳ lạ trong cuộc sống của anh: Một cô gái điếm tâm thần gọi đến để quấy rối tình dục qua điện thoại, hai chị em thầy đồng, một cô bé 16 tuổi bị ám ảnh bởi cái chết của bạn trai gọi anh là “Chim vặn dây cót”, một cựu chiến binh kể lại cho anh câu chuyện về nỗi kinh hoàng của binh lính Nhật trong những năm đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai tại Cao nguyên Mông Cổ và trên đất Trung Hoa. Tất cả những sự kiện kỳ quặc đó lại tiếp tục đẩy anh tới những sự kiện còn kỳ quặc hơn nữa.

Trích đoạn tác phẩm

Về sự chào đời của

Okada Kumiko và Wataya Noboru

Là con một trong gia đình, tôi thật khó hình dung anh chị em ruột trong một nhà thường cảm thấy gì lúc gặp nhau sau khi ai nấy đều đã lớn và có cuộc sống riêng. Trong trường hợp Kumiko, bất cứ khi nào ai đó nhắc tới Wataya Noboru thì nàng lại có một vẻ mặt kỳ lạ, như thể nàng vừa tình cờ cho một món gì đó có mùi vị khó chịu vào mồm. Nhưng chính xác là vẻ mặt đó ẩn chứa cái gì, tôi chịu không biết được. Về phần mình, tôi chẳng có mảy may thiện cảm với anh ta. Kumiko cũng biết và thấy điều đó hoàn toàn tự nhiên. Bản thân nàng cũng chẳng ưa gì ông anh. Giá như không phải hai anh em ruột thì thật khó hình dung ra cảnh hai người nói chuyện với nhau. Thế nhưng quả thực họ là anh em ruột, điều đó càng khiến mọi chuyện thêm rắc rối.

Sau khi tôi cãi nhau om sòm với ông bố và cắt đứt quan hệ với gia đình, Kumiko hầu như không có dịp nào gặp lại Wataya Noboru. Cuộc cãi nhau đó quả thực là kịch liệt. Trong đời tôi không mấy khi cãi nhau với ai - tôi vốn không thuộc loại người hay tranh cãi -, nhưng khi đã lâm vào thế chẳng đặng đừng thì tôi cãi tới cùng, không ngừng được. Nhưng sau mỗi lần như vậy, khi đã trút sạch những gì dồn nén trong lòng, cơn giận dữ của tôi đều biến đâu mất một cách kỳ lạ. Không còn căm ghét, chẳng còn phẫn uất, chỉ còn thấy hết sức nhẹ nhõm rằng tôi sẽ không bao giờ phải gặp lại ông ta nữa; rằng tôi đã trút được cái gánh nặng phải mang đã quá lâu này. Thậm chí tôi còn thấy thông cảm với cuộc đời lắm gian truân vất vả của ông ta, dù cuộc đời đó với tôi có vẻ ngu ngốc và đáng tởm đến đâu đi nữa. Tôi bảo Kumiko tôi sẽ không bao giờ gặp lại cha mẹ nàng nữa nhưng riêng nàng thì khi nào muốn về thăm họ cũng được, chỉ có điều không có tôi. Nhưng Kumiko cũng chẳng thiết tha gì chuyện về thăm cha mẹ.

Hồi đó Wataya Noboru đang sống cùng cha mẹ, song khi cuộc cãi vã bùng lên giữa cha anh ta và tôi, anh ta chỉ rút lui, chẳng nói với ai một lời nào. Điều đó tôi không lạ. Anh ta chẳng mảy may quan tâm đến tôi. Anh ta tránh hết sức để không gặp mặt tôi trừ những lúc thực sự cần thiết. Vì vậy, một khi đã không còn đến thăm cha mẹ Kumiko, tôi cũng chẳng còn lý do gì để gặp Wataya Noboru. Bản thân Kumiko cũng chẳng có lý do đặc biệt gì để gặp anh ta. Anh ta bận, nàng cũng bận, nhưng cái chính là hai người chưa bao giờ thân thiết với nhau.

Tuy vậy thỉnh thoảng Kumiko cũng gọi điện đến văn phòng khoa của anh ta, đôi khi anh ta cũng gọi điện cho nàng ở công ty (nhưng không bao giờ gọi về nhà chúng tôi). Nàng thường thông báo lại với tôi về những cuộc trò chuyện đó, nhưng không đi vào chi tiết. Tôi không bao giờ hỏi, nàng cũng không bao giờ tự kể rõ hơn nếu không cần thiết.

Tôi không cần biết Kumiko và Wataya Noboru nói với nhau những gì. Bảo vậy không có nghĩa là tôi khó chịu khi biết hai người có nói chuyện với nhau. Đơn giản là tôi không hiểu hai con người khác nhau đến thế thì có gì để nói với nhau? Hay chỉ vì họ là hai anh em nên mới có chuyện để nói?

* * *

Tuy là anh em nhưng Wataya Noboru và Kumiko cách nhau những chín tuổi. Một lý do nữa khiến hai anh em ít gần gũi nhau, ấy là hồi nhỏ Kumiko sống với ông bà nội suốt mấy năm liền.

Nhà Wataya không chỉ có hai đứa con là Kumiko và Noboru. Giữa hai anh em còn có một người con gái nữa, lớn hơn Kumiko năm tuổi. Tuy nhiên, hồi Kumiko mới ba tuổi cha mẹ đã gửi nàng từ Tokyo về tỉnh Niigata xa xôi cho bà nội nuôi nấng một thời gian. Về sau cha mẹ bảo nàng rằng họ làm vậy bởi hồi nhỏ nàng ốm đau quặt quẹo luôn, thành thử không khí trong lành ở thôn quê chắc sẽ có ích cho nàng, nhưng nàng chẳng bao giờ tin hẳn lời họ nói. Theo nàng nhớ thì nàng chưa bao giờ đau yếu cả. Nàng chưa hề ốm nặng bao giờ, người thân ở Niigata hình như cũng không ai phải lo lắng lắm về sức khỏe của nàng. “Em tin chắc đó chẳng qua là cái cớ thôi”, có lần Kumiko bảo tôi vậy.

Nỗi ngờ vực của nàng được củng cố bởi một chuyện nàng nghe được từ một người bà con. Hóa ra mẹ và bà nội của của Kumiko từng có một mối bất hòa kéo dài, và quyết định đưa Kumiko về Niigata là kết quả một sự thỏa thuận giữa hai người. Bằng cách giao con cho bà nội nuôi một thời gian, cha mẹ Kumiko đã làm bà nguôi giận, còn đến lượt mình, nhờ được nuôi dạy cháu một thời gian nên bà nội củng cố được quan hệ với con trai (tức cha của Kumiko). Nói cách khác, Kumiko đã là một kiểu con tin.

- Ngoài ra, - Kumiko kể với tôi, - ba mẹ em đã có hai đứa con rồi, thành thử cho đi đứa thứ ba cũng phải chẳng mất mát gì ghê gớm. Dĩ nhiên là không phải ba mẹ có ý bỏ em luôn; hình như ba mẹ chỉ nghĩ rằng bởi em còn quá nhỏ nên đi xa khỏi nhà như thế cũng chẳng hề gì. Có lẽ ba mẹ đã không biết nghĩ cho thấu đáo về chuyện đó. Chẳng qua đó là giải pháp dễ dàng nhất cho tất cả mọi người. Anh có tin được không? Em không biết tại sao ba mẹ chẳng hề hiểu rằng chuyện đó có thể tác động như thế nào đến một đứa bé.

Nàng được bà nội nuôi nấng ở Niigata từ năm ba tuổi đến năm sáu tuổi. Những năm tháng đó trong đời nàng mà gọi là u buồn hay phi tự nhiên thì cũng không đúng. Bà nội cưng nàng như cưng trứng mỏng, Kumiko cũng thích chơi với mấy anh em họ gần tuổi mình hơn là chơi với anh chị ruột vốn lớn hơn nàng nhiều. Cuối cùng, khi Kumiko đến tuổi đi học, ba mẹ đón nàng về Tokyo. Ba mẹ bắt đầu đâm lo rằng đứa con gái đã xa họ quá lâu nên khăng khăng đòi đưa về trước khi quá muộn. Nhưng theo nghĩa nào đó thì đã quá muộn. Suốt mấy tuần sau khi quyết định cho nàng về lại Tokyo, bà nội ngày càng rơi vào trạng thái kích động. Bà thôi ăn và ngủ rất ít. Bà khi khóc khi cười, lúc lại hoàn toàn câm lặng. Mới phút trước bà vừa siết chặt Kumiko vào lòng đến tức thở, phút sau bà đã lấy thước kẻ phát vào tay Kumiko mạnh đến nỗi hằn cả lằn đỏ lên. Phút trước bà bảo bà không muốn cho cháu đi, rằng bà thà chết còn hơn mất cháu, phút sau bà lại bảo bà không muốn thấy mặt cháu nữa, rằng bà muốn tống cháu đi cho khuất mắt. Bằng những lời không thể nào thậm tệ hơn, bà rủa xả mẹ Kumiko, bảo nàng rằng mẹ nàng là một mụ đàn bà khốn nạn. Thậm chí bà còn đâm kéo vào cổ tay định tự sát. Kumiko không hiểu nổi điều gì đang diễn ra quanh mình nữa. Mọi chuyện vượt ngoài khả năng lĩnh hội của nàng.

Thế là nàng quyết định khép kín mình trước ngoại giới. Nàng nhắm mắt lại. Nàng khép tai lại. Nàng đóng chặt tâm trí mình. Nàng không nghĩ gì nữa, không hy vọng gì nữa. Mấy tháng sau đó là một khoảng trống hoàn toàn trong ký ức nàng. Nàng tuyệt chẳng nhớ bất cứ điều gì xảy ra trong thời gian đó. Khi hồi tỉnh, nàng thấy mình đang ở trong một ngôi nhà mới. Đó là ngôi nhà nơi lẽ ra nàng đã sống từ xưa đến nay. Ba mẹ nàng sống ở đây, anh nàng cũng thế, chị nàng cũng thế. Nhưng đó không phải nhà của nàng. Nó chỉ là một môi trường sống mới mà thôi.

Kumiko trở thành một đứa trẻ lầm lì, khó tính trong môi trường mới đó. Không ai là người cô bé có thể tin, không ai là người cô có thể tin cậy một cách vô điều kiện. Ngay cả trong vòng tay cha mẹ, cô cũng không bao giờ hoàn toàn thoải mái. Cô không biết mùi cơ thể họ; cái mùi lạ lẫm đó khiến cô bứt rứt khó chịu. Thậm chí đôi khi cô còn căm ghét nó. Người duy nhất trong nhà mà Kumiko dần dần cởi mở hơn, dù một cách khó khăn, là chị gái. Cha mẹ đã hết còn hy vọng có thể gần gũi được cô bé; anh trai gần như không biết tới sự tồn tại của cô. Nhưng chị gái thì thấu hiểu sự bấn loạn và nỗi cô đơn ẩn sau thái độ bướng bỉnh đó. Chị ở suốt ngày bên Kumiko, ngủ cùng buồng với cô, nói chuyện với cô, đọc sách cho cô nghe, đưa cô đi học, giúp cô làm bài tập. Những khi Kumiko rúc vào một góc buồng mà khóc hàng giờ, chị gái luôn có mặt, ngồi một bên, ôm chặt cô vào lòng. Chị làm tất cả những gì có thể để tìm đường đến với cõi lòng sâu kín của Kumiko. Giá như chị không chết vì trúng độc thức ăn chỉ một năm sau khi Kumiko từ Niigata trở về thì mọi chuyện hẳn đã khác đi rất nhiều.

- Nếu chị còn sống thì mọi chuyện trong gia đình hẳn đã tốt hơn rồi, - Kumiko nói. - Mới mười một tuổi chị ấy đã là trụ cột về tinh thần cho cả gia đình. Giá như chị không chết thì mọi người khác trong nhà hẳn đã ít khác người hơn. Ít nhất thì em cũng không phải là một trường hợp hết thuốc chữa như thế này. Anh có hiểu ý em không? Em thấy mình thật có lỗi sau chuyện đó. Tại sao em không chết thay cho chị? Tại sao em đây, một đứa chẳng ai cần tới, chẳng đem lại niềm vui cho ai, tại sao em không chết đi? Ba mẹ và anh trai hiểu rõ cảm xúc của em, nhưng họ không hé một lời để an ủi em. Mà đâu chỉ có thế. Họ không từ bất cứ cơ hội nào để nói về người chị quá cố của em: nào chị ấy xinh, nào chị ấy thông minh, nào ai cũng thích chị ấy, nào chị ấy chu đáo quan tâm đến mọi người, nào chị ấy chơi piano giỏi! Thế rồi họ bắt em phải học chơi piano! Sau khi chị mất thì cũng phải có ai đó sử dụng cây đàn piano to đùng kia chứ. Nhưng em chẳng thích chơi piano tí nào cả! Em biết mình sẽ chẳng bao giờ chơi hay như chị ấy, em cũng không cần có thêm một cách để chứng minh em kém cỏi đến độ nào so với chị ấy. Em không thể thế chỗ cho bất cứ ai, nói gì đến cho chị ấy. Nhưng chẳng ai nghe em. Không ai thèm nghe em cả! Mãi đến giờ, hễ nhìn thấy piano là em ghét cay ghét đắng. Thấy ai đó chơi piano là em không chịu nổi.

Tôi vô cùng phẫn nộ với gia đình Kumiko khi nghe nàng kể. Phẫn nộ vì những gì họ đã làm với nàng. Vì những gì họ đã không làm được cho nàng. Ấy là hồi chúng tôi chưa cưới. Hai chúng tôi chỉ mới quen nhau được hơn hai tháng. Đó là một sáng Chủ nhật yên tĩnh, chúng tôi đang nằm trên giường. Nàng kể một hồi lâu về thời thơ ấu, như thể gỡ dần một sợi chỉ rối, thỉnh thoảng lại ngừng để đánh giá tầm quan trọng của từng sự kiện nàng vừa thổ lộ. Đó là lần đầu tiên nàng kể nhiều đến vậy về mình. Trước buổi sáng hôm đó tôi hầu như chẳng biết gì về gia đình hay thời thơ ấu của nàng. Tôi biết tính nàng trầm lặng, rằng nàng thích vẽ, rằng nàng có mái tóc dài thật đẹp, rằng nàng có hai cái bớt trên bả vai phải. Và rằng tôi là người đàn ông đầu tiên trong đời nàng.

Nàng vừa kể vừa khóc thút thít. Tôi hiểu tại sao nàng cần phải khóc. Tôi ôm nàng trong vòng tay, vuốt tóc nàng.

- Nếu chị ấy còn sống, em tin chắc anh sẽ yêu chị ấy, - Kumiko nói. - Hồi xưa ai cũng yêu chị ấy. Vừa thấy lần đầu là đã yêu ngay.

- Có thể, - tôi nói. - Nhưng anh lại phải lòng em. Chuyện ấy đơn giản lắm mà. Chỉ có anh và em thôi. Chị của em chẳng liên quan gì ở đây hết.

kafka bên bờ biển (tái bản 2020)

kafka bên bờ biển (tái bản 2020)

Kafka bên bờ biển có hai câu chuyện song song. Một kể về cậu bé Kafka Tamura, một kể về lão già Nakata.

Kafka Tamura luôn có một bản ngã là Quạ theo bên cạnh. Cậu bé mười lăm tuổi này sống với cha sau khi mẹ và chị gái bỏ đi. Cậu luôn bị một lời nguyền của cha ám ảnh: mày sẽ ngủ với mẹ và chị gái mày sau khi giết cha. Kinh sợ, Kafka bỏ nhà ra đi. Cậu chìm đắm trong một thư viện sách khổng lồ ở Takamatsu. Rồi những chuyện bí ẩn xảy ra, cậu gặp cô gái Sakura và bà Miss Saeki, những người mà cậu luôn băn khoăn không biết có phải là chị và mẹ mình. Bố Kafka bị giết, và cậu nghĩ, không biết có phải lời nguyền đã ứng?

Trong khi đó, ở bên kia bờ biển, ông già Nakata cũng có một cuộc hành trình đến Takamatsu. Bị một tai nạn từ nhỏ, Nakata mất trí nhớ và khả năng đọc, viết; tuy nhiên bù lại ông có thể giao tiếp với loài mèo. Vì thế ông nhận sứ mệnh đi tìm con quỷ giết mèo hàng loạt, tìm một phiến đá bí ẩn…

 Kỳ lạ, bí ẩn, pha trộn với hiện đại, Kafka bên bờ biển khiến cho mọi con đường văn học, mọi cách tiếp cận văn học đều bàng hoàng, choáng ngợp.

Nhận định

“Tác giả Nhật được yêu thích nhất tại Mỹ này có thể xuất bản ẩn danh tác phẩm này mà những fan của ông vẫn sẽ nhận ra tức khắc. Còn với những người đọc lần đầu, Kafka bên bờ biển sẽ là lời giải thích xuất sắc cho tiếng tăm xứng đáng của ông cả ở phương Tây lẫn ở quê nhà. Ông viết ra loại văn hậu hiện đại, triết lý, hoang đường mà đọc thì thật lý thú; ông trầm trọng hơn Tom Robbins, nhẹ nhõm hơn Thomas Pynchon.” - Steven Moore, The Washington Post

“Văn Murakami chẳng mấy khi ở dưới mức mê đắm cả, và tôi đã ngấu nghiến Kafka bên bờ biển một lèo không nghỉ… Với những ai yêu một tự sự lớn, cuốn tiểu thuyết này thực sự huy hoàng.” - David Mitchell, tác giả Cloud Atlas

“Cuốn sách là một hỗn hợp chừng mực giữa giật gân, kỳ ảo và văn chương, và nó thuyết phục một cách đặc biệt. Lại một lần nữa ông đã tạo ra một câu chuyện khiến bạn lật qua nhanh chóng đến lạ, để rồi ghi nhớ và băn khoăn về nó lâu dài.” - Hugo Barnacle, Sunday Times

“Kafka bên bờ biển lạ lùng đến nỗi ngay cả những thứ cũ rích trong đó cũng khoác một vẻ huyền bí. Tựa như một băng nhạc anh nghe rõ cả tiếng cọt kẹt ghế của nhạc công: nếu nhạc đã hay thì cả tiếng ghế cũng là một phần của nó.” - Paul Lafarge, The Village Voice

“Chưa bao giờ tôi gặp một cuốn sách thuyết phục được mình đến thế bởi sự sáng tạo trong trần thuật và sự yêu thích kể chuyện… hấp dẫn vô cùng.” - Stuart Jeffries, Guardian

“thực sự choáng ngợp.”   - The Book Magazine

“Cuốn tiểu thuyết khác thường và mê hoặc nhất cho tới nay của thần tượng văn chương Nhật Haruki Murakami.” - Vintage

“Kafka bên bờ biển là một cuốn sách hay khỏi phải bàn cãi. [...] Murakami đã gây hồi hộp một cách tài tình để cuốn người đọc không cưỡng được vào mạch truyện kỳ ảo và quấn quýt.” Ludovic Hunter-Tilney, Financial Times

“Kafka bên bờ biển có thừa huyền bí để làm những người hâm mộ sung sướng, và sẽ chiêu mộ thêm cả những người mới.” - Matt Thorne, The Independent.

“Cấu tứ xuất sắc, bối cảnh siêu thực táo bạo, sexy, và cuốn đi trong một cốt truyện nhanh mạnh và luôn ngộ nghĩnh, tác phẩm mới của Murakami đào xới tầng tầng lớp lớp những cơ chế bên trong của bản thể chúng ta với tính sôi nổi đặc trưng của ông.” - James Urquhart, Independent on Sunday

“Trí tưởng tượng mãnh liệt của tác giả cũng như xác tín về sức mạnh cổ xưa của câu chuyện ông đang kể lớn lao đến nỗi đã biến cả cái mớ lộn xộn này thành chân thực.” - Laura Miller, The New York Times Book Review

“Một cuốn sách để-ngấu-nghiến thật sự, cũng thật là một ám ảnh siêu hình dai dẳng [...] Đằng sau những cuộc phiêu lưu điên rồ và bất ổn một cách biểu tượng của nhân vật chính, còn có một lực đẩy trong tiềm thức gần ngang bằng với lực đẩy của sex và tuổi trưởng thành: lực đẩy về phía hư vô, về khoảng trống, về sự rỗng không đầy hoan lạc. Murakami là họa sĩ nhẹ nhàng của những khoảng-chân-không.” - John Updike, The New Yorker

“Kafka bên bờ biển cũng bõ công chịu đựng: nó có thể là tiểu thuyết kỳ quái nhất của tác giả Nhật này cho đến nay, nhưng cũng là một trong những cuốn hay nhất của ông. Murakami đã nhặt từ mỗi nơi một chút: cả Sophocles, phim kinh dị, truyện tranh Nhật Bản lẫn những mảnh phim-hay-trong-tuần ủy mị.” - Malcolm Jones, Newsweek

“Ám chỉ về tác giả Hóa thân có làm tăng thêm tính hoang đường của thế giới Murakami, nhưng với tất cả những kết cấu luân chuyển, mèo nói chuyện và bản thảo bốc cháy, và thế giới kỳ ảo mê hoặc đó, cuốn sách gần với Nghệ nhân và Margarita của Mikhail Bulgakov hơn bất kỳ tác phẩm nào của Kafka.” - Steven G. Kellman, Review of Contemporary Fiction

“Nói chung tôi không thuộc đội ngũ hâm mộ những cuốn sách có mèo nói chuyện và xuất hồn trong mơ, nhưng sự nghiêm cẩn thấy rõ của Murakami, cũng như Lewis Carroll, đã tạo ra một thứ không những nghiêm túc mà còn luôn luôn thú vị; những sự kiện quái đản trong cuốn sách được dựa vững chắc trên một kỹ thuật viết rất cổ điển, rất Dicken.” - Philip Hensher, The Spectator

“Những biến hóa của Murakami quanh chủ đề [hai nửa linh hồn] cùng huyền thoại về Oedipus độc đáo một cách táo bạo và hay một cách thuyết phục. Xin nồng nhiệt giới thiệu Kafka bên bờ biển; nhớ đọc cho con mèo nhà bạn nghe.” - Steven Moore, The Washington Post

Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

Liên Hệ