Phu Nu Tung Thu - Phu Nu Ban Ve Van De Phu Nu Tren Phu Nu Tan Van

Phu Nu Tung Thu - Phu Nu Ban Ve Van De Phu Nu Tren Phu Nu Tan Van

Phụ Nữ Tùng Thư - Phụ Nữ Bàn Về Vấn Đề Phụ Nữ Trên Phụ Nữ Tân Văn

Tuần báo Phụ nữ tân văn (PNTV) là tờ báo thứ 2 ở Nam Kỳ do phụ nữ sáng lập, và được xem là tờ báo bằng chữ quốc ngữ thành công nhất Việt Nam thời đầu thế kỷ XX.

Cuốn sách này sưu tầm tuyển chọn các bài viết của các nữ nhà báo, nhà văn đăng báo Phụ nữ tân văn (1929-1935), thảo luận về các vấn đề của phụ nữ buổi đầu biết đến bình quyền. Các tác giả trong sách là các nữ nhà văn nhà báo đóng vai trò các cây bút chủ lực, cũng là bộ biên tập của tòa báo PNTV, như: Mme Nguyễn Đức Nhuận, Đạm Phương nữ sĩ, Cao Thị Ngọc Môn, Hướng Nhựt, Vân Đài, Phan Thị Nga và đặc biệt là Manh Manh nữ sĩ Nguyễn Thị Kiêm, người có khối lượng bài viết chiếm nhiều nhất trên diễn đàn báo chí nổi tiếng này.

PNTV được ghi nhận là diễn đàn báo chí nổi bật với các hoạt động có chủ đích rõ ràng và bền bỉ: vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, khuyến khích học và sử dụng chữ quốc ngữ, kêu gọi phụ nữ tham gia các hoạt động công ích vì sự phát triển toàn diện của xã hội mới, sự tân tiến của quốc gia. Cách thực hiện chủ trương cụ thể và gần gũi với nhiều tầng lớp phụ nữ từ thành thị đến nông thôn, từ quý tộc đến bình dân. Khuyên chị em giữ nếp cũ tốt đẹp và học theo cái mới ích lợi. Đả phá các hủ tục trói buộc người phụ nữ như tam tòng, tảo hôn... cũng như các thói rởm đời mới như hợm của, đua đòi... Khuyến khích phụ nữ tham gia các hội đoàn, luyện tập thể thao, mạnh dạn lên diễn đàn bày tỏ ý kiến của mình; cung cấp thông tin rộng rãi phong phú về các địa phương trên cả nước cũng như các bước tiến của phụ nữ nước ngoài, ngõ hầu mở mang dân trí phụ nữ, cổ vũ họ nghĩ và làm, bước ra xã hội chứ không còn nem nép xó nhà dưới trướng đàn ông...

Ngoài ra, theo dòng lịch sử, PNTV trở thành một nguồn tư liệu quý giá giúp hình dung về sự hình thành phát triển của báo chí và văn học phụ nữ Việt Nam những năm tháng mở đầu, với việc sử dụng toàn bộ và khá thuần thục chữ quốc ngữ trong các trước tác đăng báo của mình.

Thông tin tác giả:

Các nữ tác giả chủ lực của báo Phụ nữ tân văn:

- Bà Nguyễn Đức Nhuận tên thật là Cao Thị Khanh, sinh ra trong một gia đình khá giả ở Phú Nhuận, Gia Định. Thân phụ của bà là cụ Cao Văn Nhiêu (1860-1933), tự Thiện Khánh, thông thạo cả Hán học và Tây học, luôn chăm lo tới sự học của con cái. Em trai bà Cao Thị Khanh là Cao Văn Chánh cũng là một nhà báo, nhà hoạt động xã hội có tiếng ở Nam Kỳ. Chủ trương sáng lập báo Phụ nữ tân văn, bà Nguyễn Đức Nhuận cũng có viết bài đăng trên báo này. Ngoài ra, bà còn tham gia các hoạt động xã hội do phụ nữ sáng lập và điều hành.

- Đạm Phương nữ sử (1881-1947) là nữ nhà báo, nhà văn, nhà hoạt động nữ quyền tiêu biểu nhất ở buổi đầu phong trào phụ nữ Việt Nam. Bà Đạm Phương dòng dõi hoàng tộc, tên thật là Công Nữ Đồng Canh, cháu nội vua Minh Mạng, con gái của Hoằng Hóa Quận vương Nguyễn Phúc Miên Triện. Bà cộng tác với báo chí ngoài Bắc trong Nam từ cuối những năm 1910, trở thành nữ tác giả nổi bật trong làng báo làng văn cả ba kỳ những năm 1920. Năm 1926, bà sáng lập và là Chánh Hội trưởng Nữ công học hội Huế, tổ chức đầu tiên của phụ nữ Việt Nam.

Bà Đạm Phương có tên trong danh sách những phụ nữ giúp biên tập Phụ nữ tân văn từ những ngày đầu khởi sự.

- Cao Thị Ngọc Môn (có thể cũng là người kí các tên Cao Ngọc Môn, Cao Thị) có tên trong danh sách những phụ nữ giúp biên tập Phụ nữ tân văn từ những ngày đầu khởi sự. Chúng tôi chưa tìm hiểu được thông tin về nhân thân tác giả này.

- Hướng Nhựt: Ngoài địa chỉ “Hà Nội” được ghi cùng với tên Hướng Nhựt trong những bài đăng báo đầu tiên, chúng tôi chưa tìm hiểu được thông tin về nhân thân tác giả này. Trên Phụ nữ tân văn, tác giả Hướng Nhựt viết bài ở mục Gia chánh, đồng thời cũng viết, dịch thuật các bài luận bàn về các vấn đề phụ nữ và xã hội.

- Bà Vân Đài (1903-1964), tên thật là Đào Thị Nguyệt Minh, là nữ nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Bà là nhà thơ nữ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới.

- Phan Thị Nga (?-1964), sinh trưởng trong gia đình gia thế, con gái ông Phan Huy Thịnh, một y sĩ ở Hội An. Cô Nga học trường Nữ sinh Đồng Khánh (Huế). Năm 1930, tham gia cách mạng, bị bắt nhốt 11 tháng trong nhà lao Thừa Phủ vì tàng trữ sách cấm. Ra tù, được đưa về gia đình quản thúc một thời gian. Cuối năm 1934, cô có chuyến đi Nam Kỳ dài ngày, ở đây cô cộng tác rồi trở thành trợ bút báo Phụ nữ tân văn.

- Nguyễn Thị Manh Manh (1914-2005) tên thật là Nguyễn Thị Kiêm (trong một số trường hợp ghi là Nguyễn Thị Kim), còn được biết đến dưới biệt hiệu Manh Manh nữ sĩ, các bút danh Lệ Thủy, Nguyễn Văn Mym, MYM, M., M.M, là nữ nhà thơ, nhà báo từng làm sôi động làng văn làng báo Nam Kỳ những năm 1930. Tuyển vào làm trong tòa soạn, đăng bài, tổ chức cho cô Kiêm và cộng sự đi thực tế và diễn thuyết khắp Nam, Trung, Bắc, báo Phụ nữ tân văn đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy cô Nguyễn Thị Kiêm trở thành một biểu tượng của người phụ nữ mới, nữ nhà văn hiện đại ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Một số trích đoạn hay:

- “Thiệt đàn bà ta từ xưa đã biết làm lụng nhọc nhằn, nhưng mà không biết là mình có quyền lợi. Chỉ biết có nghĩa vụ, chịu cực thì có mà giá trị và hạnh phúc thì không. Ngày nay thì đàn bà còn phải làm lụng hơn xưa nữa, nhưng mà cái thời kỳ hành động nầy khác xưa một điều: là chị em Việt Nam không chịu làm như nô bộc. Chị em hành động là để được có quyền lợi, để được đãi là bạn ngang hàng với đàn ông. Bởi muốn thế nên chúng tôi khuyên chị em phải tổ chức cho thành đoàn thể.”

(Mme Nguyễn Đức Nhuận, “Phụ nữ An Nam đã bước vào một thời kỳ hành động mới”, Phụ nữ tân văn, số 79 (27/11/1930), tr.14)

- “Báo Phụ nữ tân văn lại tái sanh; lần nầy cũng như lần trước, báo Phụ nữ [tân văn] nguyện làm một cái cơ quan giáo dục và phấn đấu của phụ nữ An Nam.

Tôi muốn nói rằng: Đây là nơi diễn đàn để cho chị em nào có kiến thức và nhiệt thành phô bày tư tưởng, ngõ hầu giáo dục lẫn nhau, sao cho càng ngày đoàn phụ nữ càng hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình, biết đường nào đáng cho mình noi theo mà tấn hóa.

Đây là trường học chung, không ai là thầy ai cả, vì mỗi người đều nhờ kiến thức của kẻ khác và cũng giúp ý kiến vào cho mọi người.

Cơ quan nầy lại chính là một lợi khí, chị em ta dùng đó mà phấn đấu để tranh sống còn với các đoàn thể khác. Sống còn là một câu tóm tắt quyền lợi của chị em, là: được học, được chọn bạn trăm năm cho hợp với tánh tình và quyền lợi của mình, được làm lụng theo những điều kiện công bình (như dạy học, làm thuê, làm thợ được hưởng lương bổng đáng với công làm và được cấp dưỡng những khi thai sản). Sanh ở thế kỷ nầy, những quyền đó cần cho sự sống của chúng ta lắm.”

(Mme Nguyễn Đức Nhuận, “Cơ quan giáo dục và phấn đấu của phụ nữ Việt Nam”, Phụ nữ tân văn, số 83 (21/5/1931), tr.5)

CHUYỆN VUI Ở NAM KỲ

“Cách mấy tháng trước đây có nổi lên một phong trào mà có báo gọi là “phong trào thầy Cắt”… Chắc bạn độc giả hãy còn nhớ ba ông tiên miền Hậu Giang chớ? Thầy Cắt, thầy Lụi, thầy Quất, có người còn mong cho có ông thầy Đạp nữa là đủ bốn người để hợp thành “tứ quý”. Nhưng rủi quá - nên nói là may mới phải - vì người mình hay nói “nhứt bất quá tam” nên vừa được ba ông tiên thì giải tán hội “thần độ thế” rồi cái phong trào nầy êm hồi nào cũng chẳng ai hay!

Vừa rồi, tôi có gặp một ông bạn ở Chợ Lớn, nhơn nhắc chuyện nầy, bạn tôi cười mà bảo: “Có tứ quý rồi chớ! Mà đều tại ông “tiên” thứ tư nầy ra trễ nên ít người biết.” Rồi bạn tôi, kể cho tôi nghe chuyện “ông thầy Hèo”.

Ông thầy Hèo ở Chợ Lớn, người Khách trú, lối… tuổi, “phát thời” lối vài tháng trước đây, nhằm lúc mấy ông tiên Lục tỉnh được thạnh hành. Ông nầy cũng cho thuốc cho các chứng bịnh “mà không ăn tiền”. Thuốc gồm có hai món: nước lã và dầu phộng mà ông đã làm phép. Ông không ăn tiền nhưng buộc bịnh nhơn ăn chay mấy tháng hay là một năm mới được hiệu nghiệm. Có người uống nước lã với dầu phộng và ăn chay mà không hết bịnh, đến thưa với ông thì ông bắt bịnh nhơn ấy nằm xuống cho ông nện vài hèo (gậy) để chữa bịnh! Vì vậy người ta gọi ông là ông “thầy hèo”. Người ta cũng ùn ùn đến ông thầy hèo, độ ấy, dầu phộng trong Chợ Lớn bán chạy lắm, có một người rước ông tiên nầy về nhà nuôi và giữ độc quyền bán dầu phộng cho các bịnh nhơn đến đó xin thuốc của thầy. Vì chuyện đố kị làm sao đó, người ta kể chuyện nầy cho lính hay, ông thầy hèo bị trục xuất, đuổi về Tàu. Sau khi ông nầy về xứ, các bệnh nhơn đã hứa với ông ăn chay mấy năm, mấy tháng, lần lượt ngả mặn hết. Người ngả mặn cãi lời thầy nên đau lại cũng phải; còn người ăn chay ăn mãi không thấy bớt bệnh, tức mình cũng ngả mặn luôn. Kẻ không bị nện hèo không hết bịnh, kẻ bị nện hèo cũng không lành mới tức cho chớ!

Đó là xong chuyện thầy Hèo, là đủ tứ quý!

Vài ngày sau khi nghe bạn tôi nói chuyện nầy tôi gặp một người bà con ở Châu Đốc lên Sài Gòn, nói qua tình hình dưới tỉnh, nhân nhắc đến cảnh điêu tàn của mấy “cựu tiên ông” mới kể cái lịch sử của ông tiên đầu nhứt cho tôi nghe. Ông tiên đầu nhứt không phải là thầy Cắt mà tức là “thầy Giũa” nghĩa là “tứ linh” kia thành ra “ngũ ấn”. Sắp thứ tự thì mấy cựu tiên ông ra trước ra sau như vầy: thầy Giũa, thầy Cắt, thầy Lụi, thầy Quất, thầy Hèo. (Đây không kể mỗi ông có vài người đệ tử).

Thầy Giũa là một ông già Cao Mên, lối sáu, bảy chục tuổi, không vợ con gì hết, ở một mình trong chòi lá trong một làng đàn thổ, gần rừng, xa Nam Vang chừng 6, 7 cây số, về đường đi Kom Mong Bư. Ông này phát tài vào lối tháng chín năm ngoái. Bên hè nhà ông có một khúc gỗ. Một hôm ông nằm chiêm bao thấy có ông tiên bảo giũa khúc củi kia để cho người bịnh, bất kỳ bịnh nào, uống thì lành căn dứt bịnh. Tiên lại dặn cẩn thận:“Nhà ngươi chớ lấy tiền nhiều, cứ lấy ba xu mỗi người”. Ông già Cao Mên thức dậy nhớ đành rành nhớ rõ số ba xu nên từ đó truyền bá cho làng xóm hay, để ai có bịnh đến cho ông ta chữa… Lần lần tiếng đồn xa, thiên hạ nườm nượp tới. Mỗi người phải nạp ba xu, ba cây nhang, ba lá trầu, rồi “thầy giũa” sẽ mài cho một chút vỏ cây làm thuốc trị các chứng bịnh. Lúc ấy, con đường Nam Vang đi Kom Mong Bư trở nên tấp nập, xe hơi, xe autobus, xe kéo, xe ngựa rần rần người buôn bán đem gánh, đem quán đến ở gần nhà thầy, cụm rừng trở nên cái hội chợ. Hầu hết các người bịnh ở châu thành Nam Vang đều rủ nhau viếng thầy Giũa, mỗi ngày thầy ta góp được 5, 6 thùng thiếc xu. (Vì thầy giũa không có tủ nên lấy thùng thiếc đựng dầu lửa để góp xu).

Vì đông người quá, thầy phải rào khúc củi bằng một hàng rào tre, không thì người ta ào vào, giành người cúng trước, người cúng sau. Lại có vài người xin giũa thế cho thầy, làm “công quả”. Rồi bịnh nhân mới lo lót cho kẻ công quả ấy để tới trước khỏi đợi lâu… Chẳng bao lâu, tin nầy bay đến quan trên, lính đến bắt thầy Giũa và vác hết mấy thùng xu về bót. Được vải bữa, lính thả thầy Giũa về, người ta hay, chạy tới nữa. Làm như vậy vài lần, đến sau, không thấy ai được lành mạnh nên người ta lần lần bỏ thầy Giũa trả rừng trả củi cho thầy mà trở về thành phố.

Đó là thầy Giũa; đủ năm thầy!

Trong ngũ ấn nầy, chỉ có thầy Cắt là lợi hại hơn hết, hiệu nghiệm dai hơn, nên trước khi thầy xuất cốt tiên ra, lại báo cho dân nghèo bị điên đảo một trận đích đáng khác. Người ta nhơn danh ông thầy Cắt mà lường gạt…

Cách mấy tháng trước, ở Cần Lố (Sa Đéc) phát sanh ra một vụ bán cắt kè [tắc kè]! Một người đàn ông tác “sồn sồn”, bữa kia đến một nhà đủ ăn, bảo vợ chồng chủ nhà: “Nhà ông có cắt kè không? Ông biểu trẻ kiếm cho tôi ba con lập tức đi, tôi sẽ trả cho ông mười hai đồng bạc... Tôi đi mua cắt kè cho ông thầy Cắt ở bên Cần Lố làm thuốc”. Người chủ nhà nghe mừng quá, bắt ba con cắt kè ở trong nhà đưa ra, quả thật chú nọ xỉa ra 12 đồng. Người mua cắt kè lại dặn chủ nhà nên mua giống đó cho nhiều, để trữ đó rồi bán lại cho hắn. Hắn sẽ dắt lại đó một thầy Khách trú mua 4 đồng bạc mỗi con. Chủ nhà mừng, chắc phen này làm giàu, vì lúc đó thầy Cắt ở Cần Lố còn nổi danh như thần, người ta viếng ông đông đúc.

Rồi từ hôm đó, nhà nầy mướn người đi bắt đi mua cắt kè để trữ mà bán cho người Khách trú… Không nói chắc độc giả cũng biết kẻ đem cắt kè đến bán là một bọn đồng mưu với chủ bày kế kia. Tiếng đồn ra: “Thầy Cắt mua cắt kè làm thuốc” làm cho người nào cũng đi kiếm bắt cắt kè, nhưng họ không biết cái giá cao nhất là 4$ một con nên bán rẻ cho mấy nhà chứa. Mấy ông bà nào có tiền dư thôi thì mua hết, đựng cả lu, cả khạp, tính trở qua Cần Lố bán cho Khách trú làm thuốc ở Sa Đéc, lời đồn thấu qua Long Xuyên, Châu Đốc. Người bà con của tôi thấy rõ ngày nào cũng có người lớn con nít, đàn bà xách kéo móc đi bắt cắt kè. Có một cô ra đường gặp một người quảy ba con cắt kè đi trước, đằng sau có một chú theo sau, năn nỉ biểu bán ba con đó chín đồng. Người trước không chịu nói lớn: “Dại gì bán 3 con chín đồng, tôi để bán cho Khách trú làm thuốc 4 con mười hai đồng, có sướng không?” Nghe được, cô giáo kia cũng về mua cắt kè… Sau nầy, ai cũng biết được cắt kè bán giá cao như vậy, thì người nào cũng lo đi bắt đi mua cắt kè. Có người buôn bán, bỏ bán buôn mà bắt mấy con thú ấy. Người trữ nhiều mới trở qua Sa Đéc mà bán, chở cả bao cà ròn. Đến nơi hỏi lại chẳng có ai mua, thôi thì mất tiền rầu rĩ, mở bao cho mấy con cắt kè ra, chớ chở về làm chi mang nhục, thêm tốn tiền xe… Tội nghiệp cho mấy người nghèo, làm thuê làm mướn để góp nhóp tiền đi mua cắt kè bây giờ nghèo thêm, có người đòi tự vẫn vì đồ đạc đã cầm hết vì ham mau làm giàu với số tiền to tướng đó. Lạ là mấy người bị mắc mớp nầy không nói chuyện mình lầm với ai, sợ chúng cười, nên vụ nầy ít có người biết, khi họ gặp nhau, chỉ bụm mặt mà cười, cười ra nước mắt…”

MYM

(Phụ nữ tân văn, số 217 (21/9/1933), tr.16-17)

CHUYỆN BÍ MẬT TRONG VE CHÀ

“Con Lâm được má nó cho một con cá lớn, đỏ tươi, làm bằng đường. Nó cất ca cất củm đem vô phòng và đi và nói: “Cá ơi, mầy ngon ngọt quá, một lát tao ăn thịt mầy, không bỏ miếng xương”. Bây giờ nó chưa đói, nó tính cất con cá bằng đường nơi nào đó, để một lát sẽ lấy ra ngậm.

Con Lâm không biết cất con cá chỗ nào, chực thấy cái ve chà, trong ve rộng nước có con cá lia thia tàu, cá nầy là cá thiệt, còn sống nhăn. Nó mới bỏ con cá bằng đường vô ve mà nói: “Mầy nằm trong đó đợi tao một chút, có con cá nhỏ làm bạn với mầy”. Con Lâm vừa bỏ con cá lớn bằng đường vô nước thì nó thấy con cá thia lia tàu xáp tới, bả miệng táp đuôi con cá lớn. Nó vỗ tay reo lên:

- Cá nhỏ mà ăn cá lớn! Giỏi ghê chưa!

Rồi nó chạy đi kiếm thằng Chi, anh của nó, đang bắn đạn trong vườn.

- Anh Chi ơi, vô coi cá thia lia nhỏ của tôi bữa nay nó dám ăn thịt con cá lớn đại hè!

Thằng Chi ham chơi không chịu đi; nghe con Lâm nói lắm nó mới vô nhà. Trong khi ấy con cá bằng đường ngâm lâu trong nước, tan rã mất hết. Con Lâm dẫn anh vô phòng, thấy mất con cá lớn thì la dữ:

- Tôi biểu anh vô cho mau không chịu, để con cá nhỏ ăn thịt con cá lớn hết rồi, còn gì đâu mà coi!

Thằng Chi không tin, nói con Lâm nói láo, nói xí gạt nó. Con Lâm tức mình la om, rồi hai đứa cãi lộn với nhau. Má chúng nó chạy lên, hỏi đầu đuôi rồi cười ngất. Má nó mới cắt nghĩa cho hai con nghe tại con cá lớn làm bằng đường nên vô nước nó tan rã ra. Thằng Chi thì hiểu còn con Lâm thì còn ngờ vực, nó đợi má và anh đi ra ngoài rồi nó mới lại gần ve chà, kêu con cá lia thia tàu mà nói nho nhỏ:

- Có một mình tao thấy mầy ăn thịt con cá lớn hớ? Lẽ thì mầy để dành cho tao phân nửa! Một lát đây mầy đau bụng, thây kệ mầy!”

MYM

(Phụ nữ tân văn, số 220 (12/10/1933), tr.32)

ÔNG PUJARNISCLE VỚI ĐÀN BÀ ĐÔNG DƯƠNG

“- Tôi thường nghe người ta nói ở Bắc người Pháp, Nam ít có thân cận tiếp xúc nhau, ngay đến Hà Nội, người ta cũng còn phân biệt mầu da thì phải?

- Phải, ở Bắc không được như ở đây. Nhưng đó là tại lỗi cả hai bên. Người Pháp thì không chịu khó, tìm hiểu cái tâm lý của người bổn xứ rồi vì một hai việc trái ý mà cho rằng phương pháp thân thiện hai bên không thể lập được. Với tại họ làm biếng cũng có. Một số đông người Tây ở thuộc địa không bao giờ để ý quan sát đến dân ở chung quanh mình. Có nhiều người mới qua, gặp anh em bạn ở Đông Dương đã lâu, thì chủ cũ đã làm ngã lòng khách mới. Nói là: “Anh đừng quan sát, chìu lòng thất công. Họ giả dối, khó hiểu lắm!” Rồi mấy ông “mới” muốn làm mặt lạnh, tỏ ra mình thạo chuyện thuộc địa, ra dáng điệu khinh khi kẻ bổn thổ. Một lẽ nữa là tại người trong xứ hay nghi kỵ không muốn làm quen và không bằng lòng cho người ta làm quen với mình.

- Thưa ông, có lẽ cái cớ sau là cái kết quả của cớ trước?

- Cũng có, nhưng cô phải công nhận rằng người Bắc ít ra giao thiệp với kẻ lạ hơn người Nam. Đó cũng là một nguyên nhân làm cho một số người Tây biết đều dễ ngã lòng mà không muốn bước tới.

- Thế là ông tin nơi mối “Pháp Việt đề huề” à?

- Tôi tưởng đó là cái chánh sách cai trị đáng thi hành của người Langsa. Một nhơn loại đã đến buổi văn minh thì không nên phân biệt mầu da, nòi giống gì nữa. Nếu người Pháp chê bai, chỉ trích cái độc ác của người dân Đức đánh đuổi khắc bạc dân Do Thái (Juifs) thì vì lẽ gì mà muốn giữ chánh sách chủ tớ với dân thuộc địa? Huống chi dân Do Thái là kẻ ngoại quốc đến xứ người lập nghiệp, còn người An Nam là chủ của xứ họ mà!...

- Ông có để ý rằng hiện nay có nhiều gia đình mà chồng vợ là người khác giống không? Phần đông là chồng Tây vợ An Nam; ít hơn là vợ đầm mà chồng An Nam. Đã lâu rồi, tôi có đọc quyển Colette Beaudoche của ông M. Barrès. Tác giả “bắt” một cô gái Pháp hy sinh cái ái tình của mình cho quốc gia, nghĩa là nàng Colette Beaudoche thương một người Đức nhưng vì nước mà không khứng kết duyên với người khác giống ấy. Tôi tưởng tác giả đặt để như vậy là vì ông còn thiên kiến - như nhiều người Pháp - đối với dân Đức.

- Tôi cũng tưởng như vậy. Trong cuộc hôn nhơn của người Pháp Việt chẳng có gì là tương phản cả.

- Nhưng ông có để ý rằng cái kết quả của cuộc hôn nhơn ấy nảy sanh ra một hạng người gọi là “tây lai”, hạng người ấy không được xã hội biệt đãi chăng? Người An Nam thì có cái thiên kiến lạ, cho họ (hạng tây lai) là “một giống phản phúc” nên ít ngó ngàng đến; người Pháp thì hơi có khinh khi họ cho nên họ vẫn ở ngoài cạnh hai xã hội nầy trong một hoàn cảnh dở dang, khó chịu.

- Đó chỉ là tại người ta còn thiên kiến, không

huỳnh thị bảo hòa - vấn đề phụ nữ ở nước ta

huỳnh thị bảo hòa - vấn đề phụ nữ ở nước ta

Huỳnh Thị Bảo Hòa - Vấn Đề Phụ Nữ Ở Nước Ta

Cuốn sách tuyển chọn các bài báo, công trình, bài viết, sáng tác bàn về vấn đề phụ nữ của bà Huỳnh Thị Bảo Hòa, một trong những nữ sĩ nổi tiếng VN đầu thế kỷ XX, một biểu tượng của phụ nữ Quảng Nam Đà Nẵng thời Pháp thuộc về cải cách nữ quyền, đấu tranh vì quyền lợi phụ nữ trong xã hội. “Bà viết văn, làm báo, diễn thuyết, thành lập Đà thành Nữ công học hội, có mối quan hệ tương kính với các nữ sĩ khác trên khắp vùng Quảng Đà. Cùng với Đạm Phương, Phan Thị Bạch Vân, Huỳnh Thị Bảo Hòa được xem như lá cờ đầu của phong trào phụ nữ VN những năm 1920. Trưởng thành nhờ không khí duy tân sôi nổi của cả vùng Quảng Đà và không gian thị dân cởi mở của Đà Nẵng, Huỳnh Thị Bảo Hòa sớm trở thành một biểu tượng cải cách cho phụ nữ Đà thành. Từ giữa những năm 1920, bà tích cực viết văn, làm báo, tham gia các hoạt động xã hội, tổ chức hội đoàn cho phụ nữ Đà thành, hô hào và thúc giục họ đấu tranh cho quyền phụ nữ, nam nữ bình quyền và nữ quyền.” (Đoàn Ánh Dương). Những quan điểm của bà về nữ quyền gần gũi và thiết thực, chỉ rõ cho chị em phụ nữ đầu thế kỷ phương cách để trở nên người phụ nữ mới được quyền mưu cầu hạnh phúc đích thực, được tôn trọng và có đóng góp cho xã hội. Các luận điểm trong các bài báo của bà cho đến nay vẫn còn tính thời sự, chứ ko hẳn chỉ mang tính “khai sáng” cho chị em phụ nữ cách đây hơn 1 thế kỷ.

Đặc biệt, bà còn được nhìn nhận là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết, với cuốn trường thiên tiểu thuyết khá hấp dẫn và thấm đẫm tinh thần đề cao đức hạnh và sự tự chủ của người phụ nữ, có tựa đề “Tây phương mỹ nhơn”, đã được sự giới thiệu đầy trân trọng và nhiều lời khen ngợi của các tên tuổi lớn trong làng văn làng báo thời đó như Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Diệp Văn Kỳ và Đạm Phương nữ sĩ.

Tác giả:

Huỳnh Thị Bảo Hòa (1896-1982) là một nữ sĩ nổi tiếng ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Bà tên thật là Huỳnh Thị Thái, sinh tại làng Đa Phước xã Hòa Minh huyện Hòa Vang tỉnh Quảng Nam (nay thuộc thành phố Đà Nẵng).

Một số trích đoạn hay:

- “Nay muốn sửa sang nền nữ học, trước hết phải đào tạo tư cách, phổ thông tri thức, mở mang đường thực nghiệp, cho mỗi người có một cái tư cách xứng đáng đối với gia đình với xã hội. Phần tri thức đã mở mang thì trình độ cũng nhơn đó mà cao lên một bực, vì có học thức mới biết yêu cang thường luân lý, và biết trọng đức hạnh tiết trinh, nhiên hậu mới tránh khỏi những điều bại hoại gia phong, đảo điên luân lý, mà làm một bực hiền thê từ mẫu; muốn được như vậy cần phải học nhiều để bắt chước các gương trung trinh tiết liệt, học đòi những việc lịch duyệt thực hành, thì mới biết ăn ở cho tròn bổn phận.” (Huỳnh Thị Bảo Hòa – Bàn về cách mở mang tri thức cho nữ lưu)

phụ nữ tùng thư - giới và phát triển : phan thị bạch vân - vấn đề phụ nữ ở nước ta

phụ nữ tùng thư - giới và phát triển : phan thị bạch vân - vấn đề phụ nữ ở nước ta

Phan Thị Bạch Vân: Vấn đề phụ nữ ở nước ta là một công trình biên khảo, tư liệu được nhóm tác giả Đoàn Ánh Dương, Nguyễn Thị Lan Anh, Vũ Thị Thanh Loan biên soạn và giới thiệu. Cuốn sách thuộc Tủ sách Phụ nữ tùng thư – Tủ sách Giới và Phát triển của Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, vốn đã và đang được ghi nhận tích cực từ đông đảo độc giả và giới chuyên môn.

Phan Thị Bạch Vân (1903 - 1980), bút danh Hoàng Thị Tuyết Hoa là một nữ nhà văn, nhà báo tỉnh Gò Công cũ, nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Khoảng năm 1928, dưới sự bảo trợ của nhà thuốc gia truyền Võ Đình Dần, bà lập nhà in và nhà xuất bản mang tên Nữ lưu thơ quán tại số 12, đường Chủ Sự Thiều, làng Thành Phố, Gò Công với mục đích không chỉ đơn thuần là công việc kinh doanh mà còn nhằm truyền bá những tác phẩm tiến bộ, đặc sắc của nền văn học thế giới và nền văn học Việt Nam cho nhân dân ta, nhất là giới phụ nữ, để giáo dục đạo đức, luân lý và nâng cao trình độ hiểu biết của mọi người. Các tác phẩm của bà tạo một luồng gió mới vào văn học Nam Kỳ nói chung thời kì đó, với nội dung đả kích trực diện những luân lí đã cũ kĩ, lỗi thời, đàn áp và gò bó tư tưởng người phụ nữ. Ngoài việc thành lập Nữ lưu thơ quán, bà còn là nhà báo khi đảm nhận nhiệm vụ trợ bút cho Đông Pháp thời báo, chuyên phụ trách mục “Phụ trương phụ nữ và nhi đồng” và là tác giả của nhiều bài xã thuyết sâu sắc. Bà đã quy tụ được nhiều nhà văn có uy tín ở trong nước lúc bấy giờ để dịch thuật những bộ truyện hay, những tác phẩm nổi tiếng của Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp và Việt Nam nhằm giới thiệu rộng rãi cho độc giả trong nước. Song song với đó, bà viết nhiều xã thuyết, truyện ngắn hay tiểu thuyết đều nhắm đến việc giác ngộ, tuyên truyền tinh thần yêu nước cho nhân dân và nhấn mạnh đến vai trò to lớn của phụ nữ trong công cuộc giải phóng dân tộc. Một số tác phẩm nổi bật do bà chắp bút có thể kể đến như Nữ anh tài, Kiếp hoa thảm sử, Lâm Kiều Loan…

Dù có ảnh hưởng rộng rãi tới phong trào phụ nữ đương thời, nhưng do chính sách cấm đoán của chính quyền thuộc địa, sau năm 1930, các tác phẩm của Nữ lưu thơ quán đã thất lạc đi nhiều. Do đó, sau gần một thế kỷ, việc sưu tầm giới thiệu về Phan Thị Bạch Vân cùng những trước tác của bà và các xuất bản phẩm của Nữ lưu thơ quán Gò Công do bà chủ trương và điều hành là một công việc cần thiết, nhằm trả lại đúng vị trí lịch sử của Phan Thị Bạch Vân, đồng thời giúp cho việc nhìn nhận đầy đủ hơn về một thời điểm quan trọng của phong trào phụ nữ Việt Nam, ở vào lúc mà người phụ nữ Việt Nam bắt đầu xác lập được địa vị của mình trong đời sống báo chí, văn chương và xã hội. Cuốn sách Phan Thị Bạch Vân: Vấn đề phụ nữ ở nước ta ra đời cũng nhằm chung mục đích này.

Cuốn sách giới thiệu tới bạn đọc 03 tác phẩm tiêu biểu của nữ sĩ Phan Thị Bạch Vân, bao gồm cả dịch thuật và sáng tác, những tác phẩm đề cập trực tiếp và thẳng thắng các vấn đề rào cản trong tâm tưởng người phụ nữ đầu thế kỉ XX, từ đó đả kích xã hội đương thời, động viên phụ nữ trước nhất là đổi mới tư duy về chức phận, sau là tự mình thay đổi, tìm con đường của riêng mình, tự lập, tự chủ, gánh vác những trọng trách lớn lao, bình đẳng như bao công dân khác trong xã hội. 03 tác phẩm gồm Gương nữ kiệt (Tiểu sử bà Roland, nữ kiệt thứ nhứt châu Âu), Nữ anh tài (cảnh thế tiểu thuyết) và Kiếp hoa thảm sử (xã hội tiểu thuyết). Ngoài việc đưa trực tiếp những tư tưởng mới về đổi mới thân phận người đàn bà vào lời văn, câu thoại các nhân vật trong tác phẩm, điểm hay trong bút văn của Phan Thị Bạch Vân chính bởi sử dụng những lối văn, câu từ truyền thống của Nam Bộ, nói cách khác là dùng một “phông nền” văn chương gần gũi với dân chúng để rồi “thay da đổi thịt”, kể những câu chuyện li kì kiểu mới và ngầm cổ vũ cho tinh thần văn chương không bi lụy, không nặng đạo lí gò ép người đàn bà. Đó là thành công đáng nể trong cả một công cuộc giải phóng nữ giới mà bà tạo dựng, cũng để thấy vai trò không nhỏ của bà trong nền văn học Nam Kỳ đầu thế kỷ XX.

Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam xin trân trọng được giới thiệu cùng bạn đọc.

Tác giả

Phan Thị Bạch Vân

(1903 - 1980)

(bút danh: Hoàng Thị Tuyết Hoa)

Nhà văn, nhà báo, người sáng lập và điều hành Nữ lưu thơ quán Gò Công.

Một số tác phẩm nổi bật:

Gương nữ kiệt (Tiểu sử bà Roland, Nữ kiệt thứ nhứt châu Âu)
Giám Hồ nữ hiệp (Thu Cận nữ hiệp tiểu sử, Nữ hiệp nước Tàu)
Nữ anh tài (cảnh thế tiểu thuyết), (6 cuốn)
Kiếp hoa thảm sử (xã hội tiểu thuyết)
Lâm Kiều Loan (tiểu thuyết ẩn tình xã hội Nam Kỳ), (cuốn 1)

Về Tủ sách Phụ nữ tùng thư

Tủ sách Phụ nữ tùng thư (Tủ sách Giới và Phát triển) của Nhà xuất bản Phụ nữ là tủ sách công bố các công trình về vấn đề phụ nữ (the question of women), hướng tới các nhận thức và thực hành quyền phụ nữ (women’s rights), cũng như đấu tranh cho nữ quyền (feminism), vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam và sự phát triển bền vững của đất nước.

tự lực văn đoàn với vấn đề phụ nữ ở nước ta (tuyển chọn các bài viết trên báo phong hóa và ngày nay)

tự lực văn đoàn với vấn đề phụ nữ ở nước ta (tuyển chọn các bài viết trên báo phong hóa và ngày nay)

Tác phẩm

Tự Lực văn đoàn với Vấn đề phụ nữ ở nước ta là một công trình khảo cứu được biên soạn công phu bởi nhóm chuyên gia thuộc Viện Văn học Việt Nam. Tác phẩm thuộc Tủ sách Phụ nữ tùng thư – Tủ sách Giới và Phát triển của Nhà xuất bản Phụ nữ VN, từ khi khởi lập đến nay vốn đã và đang được ghi nhận tích cực từ độc giả và giới chuyên môn.

Nhắc đến mối liên quan giữa Tự Lực văn đoàn với vấn đề nữ quyền, hẳn độc giả khó có thể không nhắc đến bộ tứ tiểu thuyết lừng danh Nửa chừng xuân (Khái Hưng), Đoạn tuyệt (Nhất Linh), Lạnh lùng (Nhất Linh), Thoát ly (Khái Hưng). Cho đến nay, bộ tứ này vẫn “đáng được xem là những tác phẩm tiêu biểu nhất, những tiếng nói mạnh mẽ và quyết liệt nhất, trong cuộc đấu tranh đòi các quyền phụ nữ và nữ quyền ở Việt Nam lúc bấy giờ. Những tác phẩm ấy đã vượt ra ngoài khuôn khổ của trang sách, của các thụ hưởng nghệ thuật, để tác động vào đời sống, động viên và cổ vũ những cô gái mới khẳng định giá trị cá nhân cá thể của mình, biết yêu quý trân trọng tuổi xuân, để “lạnh lùng” mà “đoạn tuyệt” và “thoát ly” chế độ và luân lý cũ, vốn chỉ bóp nghẹt tự do và giam hãm người phụ nữ vào trong không gian và sự chuyên chế của gia đình trưởng giả truyền thống.” (Đoàn Ánh Dương). Nhưng không chỉ có thế, Tự Lực văn đoàn còn góp những tiếng nói thiết thực hơn, với một phong cách hóm hỉnh không thể lẫn, vào phong trào nữ quyền đang dấy lên mạnh mẽ lúc bấy giờ.

Tập hợp và tuyển chọn từ các bài báo đăng trên tờ báo nổi tiếng của nhóm Tự Lực văn đoàn là Phong hóa và sau là Ngày nay, cuốn sách này gồm các bài viết chuyên về vấn đề phụ nữ. Khác với hình dung của nhiều người, hình thức nữ giới được đặc biệt chú trọng trong các đề xuất cách tân, là điểm đặc biệt thú vị của “nữ quyền kiểu Tự Lực”, mà điển hình là chuyên đề lừng danh về Y phục phụ nữ của họa sĩ Le mur Nguyễn Cát Tường, làm dấy lên cả “một cuộc cách mạng” mà lịch sử thời trang Việt Nam ghi nhận như một mốc son hiếm có. Bên cạnh việc hướng dẫn chải chuốt sửa soạn hình dong sao cho thanh lịch và hợp thời (một cách khó có thể chi tiết hơn), những bài viết bàn về công, ngôn, hạnh xuất hiện đều đặn và khá nhiệt thành trong việc kêu gọi các bà các cô thoát bỏ cái cổ hủ lạc hậu, đón chào tiếp thu cái mới, tân tiến. Điểm hấp dẫn không thể bỏ qua nữa là các bài viết thời sự, tường thuật các hoạt động diễn thuyết “nhời đàn bà”, một hoạt động nổi đình nổi đám thời đó, các sự kiện thời trang, lễ lạt... mà ở đó sức mạnh của phong trào giải phóng nữ giới thể hiện rõ rệt sắc nét hơn cả.

Những diễn tiến lịch sử đó của phong trào phụ nữ đầu thế kỷ được thuật lại trên Phong hóa – Ngày nay với một phong cách riêng, hóm hỉnh và có đôi phần “âu yếm”, kiểu của các bậc tu mi nam tử thú vị ngắm một nửa thế giới nô nức trẩy hội, không khỏi không buông chút trào phúng tinh nghịch của những bậc trí giả trong buổi đầu văn minh đòi bình quyền của giới quần thoa.

Nhà xuất bản Phụ nữ VN xin trân trọng được giới thiệu cùng bạn đọc.

Về Tủ sách Phụ nữ tùng thư

Tủ sách Phụ nữ tùng thư (Tủ sách Giới và Phát triển) của Nhà xuất bản Phụ nữ là tủ sách công bố các công trình về vấn đề phụ nữ (the question of women), hướng tới các nhận thức và thực hành quyền phụ nữ (women’s rights), cũng như đấu tranh cho nữ quyền (feminism), vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam và sự phát triển bền vững của đất nước.

Tủ sách gồm:

- Loại Biên khảo, tư liệu: tập hợp các tư liệu trên báo chí, các công trình, bài viết của các nhà cách mạng, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu, nhà dịch thuật, nhà hoạt động nữ quyền,... ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay, khi vấn đề phụ nữ trở thành một bộ phận quan trọng trong các dự án cải cách xã hội và đấu tranh vì sự bình đẳng giới;

- Loại Hợp tuyển, tinh tuyển: tập hợp sáng tác của các tác gia nữ trong di sản văn chương Việt Nam thời trung đại, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa do phụ nữ Việt Nam sáng tạo;

- Loại Nghiên cứu: giới thiệu các tập tiểu luận chuyên đề, các chuyên khảo nghiên cứu về các vấn đề phụ nữ ở Việt Nam và thế giới;

- Loại Dịch thuật: giới thiệu các công trình kinh điển của thế giới đấu tranh cho sự nghiệp của phụ nữ, các lý thuyết và thực hành nghiên cứu về các vấn đề phụ nữ, các vấn đề về giới và nữ quyền,...; dịch và giới thiệu các công trình tìm hiểu các vấn đề của phụ nữ Việt Nam ra thế giới.

Với tủ sách này, Nhà xuất bản Phụ nữ mong muốn đem đến một cái nhìn toàn diện và có hệ thống về các vấn đề Giới và Phát triển; về vai trò và đóng góp của phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay trên mọi phương diện chính trị - văn hóa - xã hội - kinh tế...; góp phần xây dựng xã hội Việt Nam phát triển hài hòa, bền vững.

Tác phẩm đã xuất bản: 

- Phan Khôi: Vấn đề phụ nữ ở nước ta

- Đạm Phương nữ sử: Vấn đề phụ nữ ở nước ta

- Phan Bội Châu: Vấn đề phụ nữ ở nước ta

- Nguyễn Văn Vĩnh: Nhời đàn bà

- Một Điểm tinh hoa

- Nam nữ bình quyền

đạm phương nữ sử - vấn đề phụ nữ ở nước ta

đạm phương nữ sử - vấn đề phụ nữ ở nước ta

Đạm Phương nữ sử là một phụ nữ học hạnh tinh nhuần, là cháu nội của vua Minh Mạng. Bà có tài sáng tác văn thơ bằng chữ Hán và tinh thông ngoại ngữ. Trong cuộc canh tân dân tộc đầu thế kỷ XX, nhận thấy vai trò của báo chí quốc ngữ, bà đã tham gia tích cực vào các hoạt động báo chí và đời sống xã hội, bắt đầu từ Nam phong, sau cộng tác với nhiều báo và tạp chí khác, từ vấn đề phụ nữ mở sang nhiều vấn đề thiết hữu khác. Những năm giao thời, bà hoạt động sôi nổi nhất trên văn đàn, trở thành nữ kí giả có bút lực đáng khâm phục trong nữ giới nước nhà, đồng thời bà cũng là nhà giáo dục, hoạt động tích cực trong phong trào Nữ công học hội, biên dịch, biên soạn và sáng tác nhiều tác phẩm phục vụ công việc giáo dục nữ giới, giáo dục gia đình và giáo dục nhi đồng. 

Trên cơ sở các sách đã xuất bản về Đạm Phương nữ sử và những tài liệu quý do gia đình tác giả cung cấp cập nhật, bổ sung, nhà nghiên cứu Đoàn Ánh Dương đã công phu giới thiệu và tuyển chọn công trình Đạm Phương nữ sử: Vấn đề phụ nữ ở nước ta để nhìn nhận toàn bộ các trước tác của bà trong  sự nghiệp đấu tranh vì nữ quyền.

Cuốn sách gồm 4 phần: Các bài báo trình bày quan điểm về vấn đề phụ nữ, Các bài báo về Nữ công học hội do Đạm Phương sáng lập, Các khảo cứu về vấn đề phụ nữ được in thành sách, và Các sáng tác văn thơ với chủ đề phụ nữ. Đạm Phương nữ sử: Vấn đề phụ nữ ở nước ta đã mang lại một cái nhìn tổng quan về những vấn đề thuộc nữ học, giúp phụ nữ thay đổi về nhận thức, điều chỉnh về hành vi khi xã hội Việt Nam bước vào thời kỳ cận hiện đại. Những vấn đề Đạm Phương nữ sử đặt ra là những vấn đề giáo dục thiết thân đối với phụ nữ. Bà giảng giải cho phụ nữ từ việc trong nhà như: nấu ăn, nuôi dạy con cái, quán xuyến gia đình: Bổn phận con gái, Làm sao mà gọi là nội tướng... đến những việc ngoài xã hội: đối nhân xử thế, lập nghiệp lập thân: Bàn về giáo dục con gái, Nên lập học hội chức nghiệp, Chị em ta đã biết ham muốn thực nghiệp... Bà giúp phụ nữ vừa biết cách làm đẹp, vừa nâng cao đời sống tinh thần như đọc sách báo, văn chương giải trí. Bà cũng là người có tầm nhìn xa, thấy được tính cấp thiết của việc thành lập Nữ công học hội, tờ báo quốc văn, cơ sở thơ xã cho phụ nữ: Mấy lời hoan nghênh về việc sáng lập Phụ nữ tùng san, Đọc báo xem tiểu thuyết cũng là một thú tiêu khiển có ích...). Những sáng tác văn chương của Đạm Phương nữ sử lồng ghép rất khéo những tư tưởng về vấn đề nữ học của bà, giúp mở rộng nhãn quan của phụ nữ bấy giờ về việc tự do kết hôn, giáo dục gia đình. 

Trong khi một số thức giả đương thời quan tâm đến vấn đề nữ học, chủ trương giáo dục học đường cho nữ giới, Đạm Phương đã đề xuất được quan điểm nữ học có thể nói là rất mới mẻ, được biện luận với chủ kiến rõ ràng: sự giáo dục trong gia đình mà bà gọi là “gia đình giáo dục”. Bởi với bà, tâm tính là cái thứ nhất, là cái nền tảng, học thức là cái bổ trợ vào đó, làm cho sự giáo dục phụ nữ được trở nên hoàn toàn (Gia đình giáo dục cần phải luyện tập tâm tính trước, Người đàn bà là chủ gia đình). Bên cạnh đó, với việc thành lập Nữ công học hội, Đạm Phương đã chủ trương hoạt động của hội đáp ứng được cả hai cách để thực hiện sự học: một là qua đường sách vở; hai là qua đường thực nghiệm, và đặc biệt chú trọng vào con đường thứ hai (Lễ khánh thành Học hội nữ công ở Huế, Hội nữ công có đặt tằm, Ở Huế sắp có hội nuôi trẻ con...). Đặt Đạm Phương nữ sử với quan niệm và sự hiện thực hóa quan niệm về giới nữ và sự nghiệp giáo dục của nữ giới vào trong lịch sự vấn đề phụ nữ Việt Nam dễ thấy được bản lĩnh văn hóa của bậc nữ lưu trước những đối kháng gay gắt của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.

 Nhà nghiên cứu Bùi Trân Phượng đã đánh giá Đạm Phương nữ sử là nhà hoạt động nữ quyền đầu tiên xây dựng quan niệm nữ quyền của mình một cách có hệ thống và có tính tư tưởng: “Trong chủ nghĩa nữ quyền chánh trị xã hội... người đã để lại số lượng sách báo đồ sộ và những hoạt động thực tiễn không kém ấn tượng là Đạm Phương nữ sử, nhà giáo dục có tính cách tân đáng kinh ngạc; tôi nhận diện ở bà một nhà hoạt động nữ quyền ôn nhu, trầm tĩnh nhưng tâm huyết và quyết đoán trong sứ mạng khai trí của mình. Là mẹ và là bà của hơn một thế hệ thanh niên trí thức nam và nữ, tất cả đều được bà cho học lấy một nghề để mưu sinh, sống tự lập hay đã dấn thân hoạt động cách mạng, suốt đời bà chuyên tâm đào tạo và tổ chức đào tạo nhiều nhà giáo dục nữ khác, chia sẻ với họ tri thức, năng lực giáo dục và niềm tin rằng "giáo dục không phải là một công trình trói buộc người ta. Giáo dục là một công trình bồi bổ để nảy nở tất cả những năng lực cao quý trong một người".

Cùng thuộc Tủ sách Phụ nữ tùng thư - Giới và Phát triển, nối tiếp cuốn sách Phan Khôi: Vấn đề phụ nữ ở nước ta, tập sách Đạm Phương nữ sử: Vấn đề phụ nữ ở nước ta và những ấn phẩm sắp xuất bản của Nhà xuất bản Phụ nữ nối tiếp mạch nguồn Vấn đề phụ nữ ở nước ta hi vọng sẽ giúp bạn đọc tiếp cận vấn đề phụ nữ một cách hệ thống cũng như quá trình dịch chuyển của các quan niệm và hành động mang tính nữ quyền ở Việt Nam.

Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

Liên Hệ